Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2018
Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2018
Chuyện vui NGƯỜI XIN VIỆC THẬT THÀ - Sưu tầm.
NGƯỜI XIN VIỆC THẬT THÀ.
- Điều gì đưa anh đến với công ty chúng tôi?
Tồ đáp:
- Dạ sáng 6 giờ, em bắt hai chuyến xe buýt mới đi tới đây!
- Không phải thế! - nhà tuyển dụng lắc đầu - Cậu mong muốn gì khi đến đây?
- Em muốn có việc làm nên xin thôi! - Tồ hồn nhiên đáp.
Nhà tuyển dụng cáu gắt:
- Ý tôi là cậu mong muốn gì trong công việc này?
Tồ gãi đầu cười:
- Vậy mà nãy giờ anh không nói rõ. Dĩ nhiên là em muốn lương rồi!
- !!!
Thứ Năm, 29 tháng 3, 2018
Sưu tầm NHẠC SĨ TRÚC PHƯƠNG.
NHẠC SĨ TRÚC PHƯƠNG
CUỘC ĐỜI BUỒN
NHƯ NHỊP ĐIỆU BOLERO
Chẳng quá lời khi gọi Trúc Phương là “Ông hoàng nhạc Bolero”. Với cả gần trăm ca khúc, hầu như bài hát nào của ông cũng có một sức sống bền bỉ mãi cho đến ngày hôm nay ở bất cứ nơi nào có người Việt sinh sống.
Tài năng của ông thì ai cũng thấy, nhưng đời ông thì lại trải qua quá nhiều bất hạnh và đau thương, khốn khổ cho đến tận giờ phút cuối cùng.
Tài hoa, mệnh bạc
Nhạc sĩ Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiện Lộc. Ông sanh năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long. Cha ông là một nhà giáo sống thầm lặng và nghiêm khắc. Nhưng tâm hồn của chàng trai Thiện Lộc thì rất lãng mạn, yêu thích văn nghệ nên đã tự học nhạc, và bắt đầu sáng tác những bài hát đầu tiên lúc vừa 15 tuổi. Xung quanh nhà ông có trồng rất nhiều tre trúc, nên từ nhỏ ông đã yêu mến những âm thanh kẽo kẹt của tiếng tre va chạm với nhau và sau này đã chọn tên là Trúc Phương để nhớ về thời thơ ấu của ông với những cây tre trúc.
Cuối thập niên 1950, ông sinh hoạt văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông Tin tỉnh Vĩnh Bình một thời gian ngắn, rồi lên Sài Gòn dạy nhạc và bắt đầu viết nhạc nhiều hơn.Bài hát “Chiều Làng Quê” được ông sáng tác vào thời gian này để nhớ về khung cảnh thanh bình ở làng xóm của ông, một bài khác cũng rất nổi tiếng với giai điệu trong sáng, vui tươi là “Tình Thắm Duyên Quê”.
Không tiền bạc và không một ai thân quen ở đô thành Sài Gòn, ban đầu Trúc Phương ở trọ trong nhà một gia đình giàu có bên Gia Định và dạy nhạc cho cô con gái của chủ nhà. Không bao lâu sau thì cô gái này yêu chàng nhạc sĩ nghèo tạm trú trong nhà. Biết được chuyện này, cha mẹ cô bèn đuổi Trúc Phương đi nơi khác.
Sau chuyện tình ngang trái này, Trúc Phương càng tự học thêm về âm nhạc và càng sáng tác hăng hơn. Những bài hát sau này của ông nghiêng về chủ đề tình yêu với những nghịch cảnh chia lìa.
Trúc Phương sáng tác rất dễ dàng, nhưng với bản tính trầm lặng, bi quan và khép kín sau những cuộc tình dang dở, sáng tác của ông thường mang âm điệu u buồn, thê lương như phảng phất nỗi sầu của cổ nhạc miền Nam. Nổi tiếng nhất là “Nửa Đêm Ngoài Phố” với tiếng hát liêu trai Thanh Thúy. Sau đó là “Buồn Trong Kỷ Niệm” với những câu hát đớn đau, buốt nhói tim gan người nghe như “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn. Đôi khi nhầm lẫn đánh mất ân tình cũ, có đau chỉ thế, tiếc thương chỉ thế. Khi hai mơ ước không chung lối về…”.
Có người cho là bài hát này ông đã viết ra sau khi bị thất tình một cô ca sĩ lừng danh thời đó.
Nhạc của Trúc Phương có một giai điệu rất đặc biệt của riêng ông, mà khó lầm lẫn với người khác được. Nó trầm buồn, ray rứt, ưu tư và buồn phiền vì những mối tình dang dở, trái ngang. Nên khi soạn hòa âm cho những bài hát của Trúc Phương, nhạc sĩ hòa âm phải sử dụng ít nhất là một trong vài loại nhạc khí cổ nhạc như đàn bầu, đàn tranh, hay đàn cò (hoặc violon)thì mới có thể diễn tả hết cái hay của dòng nhạc Trúc Phương và người nghe lại càng thấm thía với nỗi muộn phiền, nhức nhối tim gan của ông.
Tên tuổi và tài năng sáng chói, nổi bật, nhưng tình duyên của nhạc sĩ Trúc Phương thì vô cùng lận đận. Khoảng năm 1970, Trúc Phương được một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, cao sang đài các đem lòng yêu thương ông, do rung cảm từ tài năng và những tác phẩm tuyệt vời của ông. Cả hai đã nên duyên chồng vợ. Tuy sống trong cảnh nghèo nàn, đó là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Trúc Phương và ông sáng tác sung mãn hơn bao giờ hết với hàng chục bài hát ra đời mỗi năm.
Nhưng niềm vui của đôi uyên ương này không kéo dài được lâu. Sau một thời gian chung sống với nhau, những tình cảm ban đầu trở nên phai lạt dần theo năm tháng và hai người đã lặng lẽ chia tay nhau. Câu hát ngày nào lại rơi đúng vào trường hợp này “khi hai mơ ước đã không cùng chung hướng về” và “đường vào tình yêu có trăm lần vui, nhưng có vạn lần buồn” ? Nhạc sĩ Trúc Phương âm thầm đau khổ trong cô đơn và lại vùi đầu vào men rượu để sáng tác thêm nhiều bài hát trong nỗi đau thương cùng cực, pha chút chán chường cho nhân tình thế thái.
Bạn bè thường gặp ông ngồi yên lặng bên những ly rượu nơi một quán nhỏ ở đường TôHiến Thành, quận 10, gần nhà của ông. Có lẽ đó là một cách làm cho nhạc sĩ tạm quên đi những cay đắng của tình đời. Đó cũng chính là lúc bài hát “Thói Đời” được sáng tác với những câu như “Bạn quên ta, tình cũng quên ta, nên chung thân ta giận cuộc đời, soi bóng mình bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngùi lên tròng mắt”… và “Người yêu ta rồi cũng xa ta … “Cỏ ưu tư” buồn phiền lên xám môi …”.
Thực ra phải nói là “cỏ tương tư” tức “tương tư thảo” là tên gọi văn hoa của thuốc lá. Những giọt rượu nồng của cõi “trần ai” này lại càng gợi thêm “niềm cay đắng” để cho nỗi ưu tư “in đậm đường trần”.“Thói Đời” lại như là một lời tiên tri thật chính xác cho quãng đời còn lại của ông suốt gần 25 năm sau đó (1971-1995).
Sau năm 1975 thì sự nghiệp sáng tác nhạc của ông dừng lại, tất cả những ca khúc của ông đều bị cấm phổ biến và trình diễn. Ông vượt biên không thành nên mất căn nhà trên đường Nguyễn Văn Thoại. Không nghề nghiệp, không nhà, ông làm đủ mọi việc để sinh sống. Với hai bàn tay trắng, ông trở về quê cũ sống nhờ vả bạn bè, mỗi nơi một thời gian ngắn.
Có người hỏi sao ông không về quê ở hẳn với thân nhân, Trúc Phương đã trả lời “Má của tôi thì già yếu đang ở dưới quê Cầu Ngang (Trà Vinh), nhưng bà nghèo quá, lại phải nuôi đám cháu nheo nhóc, không đủ ăn … nên tôi không thể về đó để làm khổ cho bà thêm nữa.”
Ở dưới tỉnh nhà Trà Vinh với bạn bè xưa cũ một thời gian, Trúc Phương lại tìm đường về Sài Gòn. Ban ngày ông làm thuê, làm mướn đủ mọi thứ nghề và lang thang khắp nơi. Bạn ông kể có một dạo bạn bè cho tá túc,ông sống trong một cái chuồng heo được sửa sang chút đỉnh, mà cũng chẳng được bao lâu…
Ông có tâm sự lại vài lời xót xa, nghẹn ngào, xúc động trên một đoạn video clip ngắn ngủi về đời sống của chính bản thân ông lúc đó như sau : “Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rày đây mai đó, “bèo dạt hoa trôi”… Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no… Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được…đến nữa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắt, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả.
Tôi nghĩ ra được một cách… là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ… Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, một chiếc chiếu lúc bấy giờ là một đồng… thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta… thế là mình lấy một đồng về…. như là tiền thế chân… Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng… Mà nói anh thương… khổ lắm…
Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi, tôi đành phải trải chiếu gần chỗ “thằng cha đi tiểu vỉa hè”, thế rồi cũng phải nằm thôi. Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát… mà lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn…Tôi nghĩ mà thôi, còn sống cho tới bây giờ và đócũng là một cái chất liệu để tôi viết bài sau này…
Và ông âm thầm từ giã cõi đời trong cảnh nghèo nàn, bi đát và cô đơn trong căn phòng trọ tồi tàn, nhỏ hẹp ở quận 11, Sài Gòn vào ngày 18 tháng 9 năm 1995, tài sản của ông có được lúc đó chỉ là một đôi dép…
Trúc Phương ghi lại biết bao cuộc tình lãng mạn ướt át nồng nàn. “Nửa đêm ngoài phố” lang thang, tình cờ làm quen một người con gái lạ, rồi để lòng vương vấn mãi: “Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời. Ðường phố vắng đêm nao quen một người..” hoặc “Trở lại chuyện hai chúng mình. Khi em với anh…” làm quen, hẹn hò cùng nhau đi tới mòn lối, khiến nó trở thành “Con đường mang tên em”.
Cũng có những lúc cô đơn, rút về nhốt mình nơi nhà trọ, nhưng Ðêm gác trọ chỉ nói lên nỗi buồn bâng quơ có vương chút phấn chấn nhờ thể điệu Tango, mà Trúc Phương ít khi dùng trong hầu hết các nhạc phẩm của mình. Rồi có lúc người yêu xưa tìm đến, cùng nhau ôn chuyện cũ, nhắc lại Chuyện ngày xưa, được ghi lại: “Hôm nào em đến thăm, mà quên mang tiếng cười, lặng yên không nói. Hai mươi tuổi đời qua mất rồi… Thôi em nhé, xin trả về niềm cô đơn trước, cho anh bước xuôi ngược, khi hai chúng mình, vòng tay trót buông xuôi, dù gặp nhau ta cúi mặt bước mà đi ”
Tiếng hát khói sương và nhạc sĩ Trúc Phương
Nhắc đến Tiếng Hát Liêu Trai, Tiếng ca U Hoài, Tiếng Hát Khói Sương Thanh Thúy phải nhắc đến Trúc Phương. Hình ảnh Thanh Thúy là nguồn cảm hứng cho ông sáng tác nhiều tuyệt phẩm mà giọng hát Thanh Thúy đã làm cho đi vào tâm khảm bao người :Chuyện Chúng Mình, Hai Lối Mộng, Ai Cho Tôi Tình Yêu, Chiều Cuối tuần, Buồn Trong Kỷ Niệm, Bóng Nhỏ Đường Chiều, Tàu Đêm Năm Cũ, …
Trúc Phương đã viết tặng riêng Thanh Thúy một số ca khú : Hình bóng cũ, Lời ca ca nữ, Mắt em buồn, Tình yêu trong mắt một người, Mắt chân dung để lại.
Hãy nghe Thanh Thúy- người hát nhạc ông thành công nhất, nói về ông trong một số báo tưởng niệm ở hải ngoại sau khi ông mất:
Hãy nghe Thanh Thúy- người hát nhạc ông thành công nhất, nói về ông trong một số báo tưởng niệm ở hải ngoại sau khi ông mất:
“Anh và tôi không hẹn, nhưng đã gặp nhau trên con đường sống cho kiếp tằm. Anh trút tâm sự qua cung đàn, còn tôi qua tiếng hát. Trong khoảng thập niên 60, tên tuổi Anh và tôi như đã gắn liền với nhau: nhạc Trúc Phương, tiếng hát Thanh Thúy.
Như một định mệnh, tôi vào đời ca hát đúng vào thời điểm Anh say mê sáng tác, và tình cờ trở thành vị sứ giả đem tâm sự Anh đến mọi người, những người không nhiều thì ít cùng mang một tâm sự với Anh. Tâm sự về tuổi thơ mộng, về tình yêu dịu dàng của đôi lứa (dù trong bối cảnh đau thương của đất nước), về chuyện tình dở dang, về cuộc đời…
Đến khi nhạc phẩm “Nửa Đêm Ngoài Phố” ra đời, tên tuổi Anh đã vang dậy khắp nơi. Với thể điệu Rumba quen thuộc, diễn tả tâm trạng đau buồn của một người khi người yêu không đến nữa, “Nửa Đêm Ngoài Phố” đã ăn sâu vào lòng tất cả mọi người, từ những người lớn tuổi, cho đến lớp người trẻ lúc bấy giờ. Bất cứ buổi trình diễn nào, tôi cũng được yêu cầu trình bày “Nửa Đêm Ngoài Phố”, từ các sân khấu phòng trà, khiêu vũ trường cho đến Đại Nhạc Hội, từ các thôn làng nhỏ bé cho đến các tiền đồn hẻo lánh xa xôi. Ngoài ra, trong những chương trình phát thanh của đài Sài Gòn và đài tiếng nói Quân Đội, vào bất cứ chương trình nhạc nào cũng có bài này…
Cũng như “Nửa Đêm Ngoài Phố”, nhiều nhạc phẩm của Anh đã trở thành gần gũi với mọi người và đã giúp tôi leo cao hơn trên nấc thang sự nghiệp. Các bài này gồm có: Nửa Đêm Ngoài Phố, Buồn Trong Kỷ Niệm, Hai Lối Mộng, Chiều Cuối Tuần, Mưa Nửa Đêm, Tàu Đêm Năm Cũ, Hai Chuyến Tàu Đêm, Chuyện Chúng Mình, Đêm Tâm Sự, Hình Bóng Cũ, Đò Chiều, Chiều Làng Em…
Thế rồi, theo như Anh hơn một lần tâm sự, đường đời đã chia đôi chúng tôi ra hai ngã, hai hướng đi. Tôi đã giã từ sân khấu, giã từ lời ca tiếng nhạc, giã từ tất cả, theo chồng đi đến những phương trời xa.Còn Anh vào quân ngũ, và vẫn tiếp tục hăng say sáng tác, hầu hết những nhạc phẫm đều nói về đời người lính phong sương, xa nhà, xa thành phố, xa người em nhỏ hậu phương… (24 Giờ Phép, Bông Cỏ May, Kẻ Ở Miền Xa, Trên 4 Vùng Chiến Thuật…)
Vào thời điểm này, Duy Khánh, Chế Linh và Hoàng Oanh có lẽ là những ca sĩ đã hát nhạc của Anh rất nhiều. Kiếp tằm chưa dứt, tôi đã trở lại với sân khấu, với ánh đèn màu. Trở lại với “Nửa Đêm Ngoài Phố”, với “Buồn Trong Kỹ Niệm”…
Rồi lại thêm một lần cuộc đời lại chia đôi chúng tôi ra hai ngã: Anh kẹt lại quê nhà, tôi sống đời lưu vong. Tôi đã tìm đủ mọi cách để liên lạc hầu mong gởi về những gói quà biếu Anh. Sự liên lạc trong những năm đầu thật khó khăn, cho mãi tới sau này, qua một số bạn bè và qua Trần Quốc Bảo, tôi mới có thể liên lạc thường hơn với Anh. Tuy nhiên, tôi rất lo lắng về bịnh tình Anh do Trần Quốc Bảo kể lại.
Nhìn những tấm ảnh Anh gởi qua đăng trên Thế Giới Nghệ Sĩ, trông Anh gầy gò, đau yếu, tôi đã không sao cầm được nước mắt. Tôi đã bàn với Trần Quốc Bảo thực hiện một cuốn băng với toàn nhạc của Anh, hầu có thể giúp Anh phần nào trên phương diện vật chất lẫn tinh thần. Chợt nghe tin Anh đau nặng… Chợt nghe tin Anh qua đời…” (theo TK tổng hợp)
Thứ Ba, 27 tháng 3, 2018
Truyện vui CON RỄ TƯƠNG LAI - Sưu tầm trên mạng
Con rể tương lai
Hôm qua, em được bạn gái dẫn về ra mắt gia đình. Cảm giác nó hồi hộp lắm các bác ạ.
Vào đến nhà, nhìn thấy bố bạn gái đang nghiêm nghị ngồi đấy mà run hết cả người. Ngồi giới thiệu xong cái tên, tuổi và nghề nghiệp thì chả biết nói chuyện gì cũng buồn nên nhìn thấy nhà bạn gái làm bằng gỗ đẹp quá nên khen ngay:
– Bác làm được căn nhà gỗ đẹp thế. Bằng này gỗ quý thì chắc lâm tặc phải cưa lâu lắm bác nhỉ. Nhà này mà cháy chắc khó dập lắm..
Haizz. Mình đã mở lời thế mà mặt bố vợ tương lai lại hằm hằm chả bảo gì.
Ngồi một lúc thì bố vợ tương lai hỏi mình :
Ngồi một lúc thì bố vợ tương lai hỏi mình :
– Thế bây giờ đi trên đường người ta đánh rơi một túi tiền và một túi đạo đức thì cậu nhặt túi nào ?
– Dạ. Tất nhiên là phải nhặt túi tiền rồi ạ.
Bố vợ tương lai mặt hằm hằm :
– Tôi biết ngay mà, các anh trẻ tuổi thì chỉ quan tâm đến tiền. Không coi trọng đạo đức gì cả. Tôi là tôi sẽ nhặt ngay cái túi đạo đức.
Mình phải chống chế ngay :
– Dạ cháu chỉ nghĩ ai thiếu cái gì thì nhặt cái đấy thôi ạ.
Có thế thôi mà ông ấy không thèm nói gì với mình đến tận bữa ăn.
oOo
Vào bữa, chắc gia đình bạn gái ít nói nên chả ai mở lời, mình phải phá tan bầu không khí bằng cách khen mẹ vợ tương lai làm món ăn:
– Món dưa muối này của bác đặc biệt quá. Dưa muối này mà ăn chung với thịt chó thì ngon tuyệt vời ạ.. . (Mà lạ thật, mình khen mà chả thấy mẹ vợ tương lai vui vẻ gì cả).
Ăn xong cơm rồi thấy mẹ vợ nằm võng, bố vợ chán bỏ vào chơi game còn các em của vợ tương lại xem tivi chả ai nói chuyện với mình nên mình đành đi về. Tính mình vốn tiết kiệm lời nói, lại thích nói ngắn gọn nên chào :
Ăn xong cơm rồi thấy mẹ vợ nằm võng, bố vợ chán bỏ vào chơi game còn các em của vợ tương lại xem tivi chả ai nói chuyện với mình nên mình đành đi về. Tính mình vốn tiết kiệm lời nói, lại thích nói ngắn gọn nên chào :
– Cô nằm, chú chơi, các em xem, cháu đi về ạ.
– Cháu quên cái mũ. Tí thì mất..
Bố vợ bảo :
– Anh để đây, mai quay lại vẫn còn chứ ai lấy của anh làm gì.
Mình đáp:
– Thời buổi này không tin được bố con thằng nào chú ạ.
Ra dắt xe, con chó nhà vợ ra sủa ầm lên. Đá cho nó 1 phát rồi quát :
– Tao thách cả nhà mày ra cắn tao đấy.
Từ tối qua đến giờ không thấy vợ tương lai gọi điện, nhắn tin.
Yên Nhàn chuyển tiếp
Sưu tầm THIÊN NHIÊN DIỆU KỲ - CNL giới thiệu
THIÊN NHIÊN DIỆU KỲ
Vẻ đẹp bọ ngựa giống loài hoa phong lan ở Việt Nam
Con côn trùng ngây thơ tiến lại gần đóa hoa xinh xắn. Bất ngờ đóa hoa chuyển động và chỉ trong tích tắc nạn nhân xấu số đã mất mạng…
Bọ ngựa phong lan sinh sống trong các khu rừng nhiệt đới của khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Chúng được gọi là bọ ngựa phong lan bởi màu sắc và hình dạng cơ thể rất giống với một đóa phong lan.
Bốn chân của chúng giống hệt như những cánh hoa lan, trong khi các cặp chi trước có răng cưa giống như các loài bọ ngựa khác được sử dụng trong việc nắm bắt con mồi.
Đây là một chiến thuật ngụy trang tuyệt vời, khiến bọ ngựa phong lan trở nên “tàng hình” khi lẩn vào những đóa phong lan.
Thay vì đi tìm mồi, loài bọ ngựa này bất động hàng giờ trên đóa hoa, chờ con mồi bay đến để tóm gọn bằng đôi càng sắc bén và tốc độ nhanh như chớp.
Bọ ngựa phong lan là loài rất hiếu sát, chúng sẵn sàng tấn công tất cả các đối tượng chuyển động lọt vào tầm nhìn của mình.
Thức ăn của chúng là các loài côn trùng, đặc biệt là ong, bướm, những đối tượng thường tìm đến hoa để hút mật.
Một điều đặc biệt khác của bọ ngựa phong lan là chúng còn có khả năng thay đổi màu sắc cho phù hợp với đóa hoa mà mình trú ẩn.
Theo các nghiên cứu, chúng có thể thay đổi được 90 màu sắc, giữa sắc hồng và nâu.
Do sự độc đáo của mình, bọ ngựa phong lan rất được các nhà sưu tầm côn trùng ưa chuộng.
Nhưng không phải ai cũng có cơ hội sở hữu loài bọ ngựa này do chúng rất hiếm và giá rất cao.
Tản mạn NGƯỜI THẦY VÀ CHIẾC ÁO - Trần Mộng Tú.
Thầy và trò của một lớp học trong tiểu chủng viện nhưng năm 1960-1965. (Hình minh họa: Gia đình Cựu Chủng Sinh Huế)
LỜI TÒA SOẠN: Một kỷ niệm nhỏ của nhà thơTrần Mộng Tú thời còn là một “nữ sinh Lớp Tám” cho chúng ta thấy tư cách của một thầy giáo và lòng tôn kính của phụ huynh học sinh đối với thầy,ở Sài Gòn trước đây hơn nửa thế kỷ. Thời đó không có cảnh phụ huynh học sinh de dọa thầy, cô, học trò tấn công cô giáo, hoặc bắt cô giáo quỳ lạy trước công chúng, như đang diễn ra ở nước ta hiện nay!
***
Tôi rụt rè đứng trước khung cửa sổ văn phòng, trong khu nhà nội trú của các Thầy và các Linh Mục chủng viện.
Thầy Khoan đứng bên trong cửa sổ hỏi ra:
Con cần gì?
Thưa thầy, mẹ con nói con thưa với cha Tùng đưa áo cho con đem về để mẹ con thay cái ống tay áo cho cha.
Thầy Khoan bảo tôi ra ngoài văn phòng nhà trường ngồi chờ, thầy đi tìm cha Tùng. Khoảng hai mươi phút sau, thầy mang ra cái áo gói trong một tờ báo cũ, đưa cho tôi đem về.
Cha Tùng là thầy dạy tôi môn Anh văn. Cha luôn luôn mặc áo cũ; hoặc sờn vai, hoặc rách khuỷu tay. Tôi đi học về lại kể cho mẹ nghe, khoe hôm nay con thấy cha mặc cái áo rách chỗ nào! Mẹ tôi nghe mãi chắc cũng mủi lòng, nên bảo tôi vào trường mang chiếc áo chùng đen của cha về cho mẹ mạng lại hay mẹ vá giúp những chỗ rách.
Tôi nhớ mãi câu chuyện ngày hôm đó (tôi mới học lớp đệ Ngũ) cho tới bây giờ sau hơn 50 năm.
Tôi học trường tư thục Công Giáo, do chủng viện Nguyễn Duy Khang-Thị Nghè lập.Trường chỉ có từđệ Thất đến đệ Tứ. Thi xong Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi phải ra trường khác học.
Một số các thầy là Linh Mục, hay Tu Sinh trong chủng viện, còn một số giáo sư được mời từ bên ngoài vào dạy.
Chủng Viện và trường học cùng ở trên một miếng đất, tôi hồi đó không biết miếng đất rộng bao nhiêu, chỉ biết có hai dẫy nhà, một dẫy cho các cha và các thầy ở, một dẫy làm trường học, có hồcá và vườn rau. Trường có nhà nguyện nhỏ cho các thầy, chúng tôi không được vào đó bao giờ.
Thầy dạy Anh Văn của chúng tôi là Linh Mục Đinh Cao Tùng, dạy Việt Văn và Âm Nhạc là thầy Đinh Ngọc Khoan, tu sinh, em ruột của cha Tùng, thầy Cầu dạy Toán, thầy Tiếng dạy Lý Hóa, linh mục Nguyễn Khoa Cử là Hiệu Trưởng.
Ngoài tu sinh và linh mục trong chủng viện, cha hiệu trưởng còn mời một số sinh viên Văn Khoa hay Luật Khoa mới ra trường “dạy giờ” cho những lớp nhỏ, đệ Thất, đệ Lục.
Chủng Viện nghèo, các linh mục, tu sĩ cũng nghèo. Mẹ tôi là cô giáo dạy thêu đan nên vá mạng rất khéo, mẹ giúp thì các cha chỉ biết cảmơn. Nhưng một chiếc áo cũ đem mạng hay vá mãi cũng hết cách, nhất là cánh tay áo, bộ phận được cử động nhiều nhất, mạng vô nó lại rách ra! Cho nên, có khi mẹ thay cả cái ống tay áo mới, ghép vào cái áo đã bạc màu!
Rồi đến một năm, trước lễ Giáng Sinh, nhìn cái áo vá chằng vá đụp chắc không còn dùng được mấy tháng nữa, chắc chắn cần thay bằng áo khác, mẹbàn với tôi mua vải về, mẹ cắt, may cho cha Tùng một cái áo chùng đen mới.
Tôi nhớ cái ngày hai mẹ con tôi đem cái áo chùng đen đó tới biếu cha. Sau giờ học, hai mẹ con tôi xin được gặp riêng cha ở văn phòng nhà trường. Cha ra tiếp, nghĩ là mẹ con tôi đến xin trả tiền học trễ tháng này (thỉnh thoảng vẫn có phụ huynh tới xin phép đóng trễ tiền học cho con). Khi thấy mẹtôi xin biếu cha cái áo mới, cha cảm động lắm. Nhưng cha không bày tỏ tình cảm của mình với thái độ vui mừng, vồn vã, như người khác khi được tặng quà. Cha vẫn đứng cách mẹ con tôi một khoảng khá xa, miệng nói lời cám ơn, giọng nhỏ nhẹ, từ tốn. Cả mẹ và tôi cũng không biết nói gì, chỉ đứng khoanh tay cúi đầu; nhưng trong lòng chúng tôi vô cùng sung sướng. Trên đường về mẹtôi nói là chỉ sợ cha không nhận, và khi mặc cái áo mới chắc cha sẽ lúng túng lắm.
Tôi nhắc mẹ là chiếc áo cũ đã hết chỗ để thay, đểmạng rồi mẹ ạ, để cha mặc một cái áo dòng với nhiều miếng vá, con thấy tội nghiệp cha quá.
Nhưng tại sao khi cha nhận được cái áo mẹ tặng, cha lại không tỏ ra vui mừng, hả mẹ?
Mẹ tôi nói. “Cha giữ lòng tự trọng của một người thầy giáo.”
Buổi học đầu sau mấy ngày nghỉ lễ Giáng Sinh năm đó, trở lại lớp, tôi thấy cha (người thầy đáng kính của tôi) mặc chiếc áo mới đi dạy. Nét mặt cha vẫn từ tốn, nghiêm nghị. Trước vẻ bình thản của cha, các học sinh cũng không ai dám hỏi đùa, “Cha mặc áo mới?” Sau giờ học, tôi phụ thu góp bài làm của các bạn đặt lên bàn giấy giáo sư. Cha Tùng ngẩng mặt lên nhìn tôi, nói:
Cám ơn con.
Tôi nghe trong giọng nói vẫn giản dị như mọi khi, nhưng hình như cũng chứa cả một niềm biết ơn đậm đà. Bỗng nhiên hai giọt nước mắt tôi ứa ra, tôi vội vàng quay nhanh về chỗ.
Về nhà tôi kể lại cảm xúc mình cho bố mẹ nghe.. Bố tôi nói:
Con ơi, Thầy giáo là cha mẹ thứ hai của mình. Các con phải luôn luôn kính trọng Thầy. Các con sai thì Thầy phạt, các con đúng thì Thầy khen thưởng. Phải biết công ơn của Thầy. Như bố mẹđây cũng phải kính trọng và mang ơn Thầy, vì Thầy đã giúp bố mẹ giáo dục các con. Thầy dạy chúng con có nhiều điều bố mẹ không biết nhưng căn bản là các con hãy lễ phép và biết tôn kính Thầy như tôn kính cha mẹ.
Rồi bố tôi kể lại truyện về một người học trò ngày xưa, hết lớp ở làng lên tỉnh học, thi đỗ làm quan huyện rồi về thăm quê. Trước tiên là thăm người Thầy dạy mình thời thơ dại. Ông Thầy già đã được lính tới tận nhà báo trước là có quan huyện ghé thăm. Khi quan Huyện khom lưng bước vào ngôi nhà tranh, vách đất, thấy Thầy mình ngồi trên tấm phản, vẫn tấm phản ngày xưa, chỉ có Thầy là già đi và ốm yếu. Quan khoanh tay, cúi lạy Thày. Thầy vẫn ngồi yên trên phản, khẽ gật đầu, giơ tay mời anh học trò cũ của mình ngồi xuống uống chén trà. Ông quan trẻ đó trước sau vẫn không dám ngồi ngang với Thầy mình, ông khoanh tay đứng suốt buổi hầu trà Thầy, cho tới khi cúi đầu chào đi giật lùi ra cửa.(*)
Cha tôi nói; đó là truyền thống đạo đức của người Việt mình con ạ. “Tôn Sư Trọng Đạo” Người học trò biết giữ cái lễ với Thầy, người Thầy biết giữ cái lòng tự trọng của mình, với cả những người làm quan, có chức có quyền.
Như Linh Mục Tùng, Thầy của con, khi nhận được chiếc áo mới, Thầy biết là mình rất cần, vì cái áo cũ rách quá rồi. Tự trong thâm tâm Thầy con rất cám ơn, nhưng không tỏ ra biết ơn một cách quá vồ vập. Vì lòng tự trọng của một người thầy giáo nghèo.
Một người nghèo mà quá vui mừng khi được một cái áo mới thì tỏ ra là mình đang thèm muốn cái áo đó lắm. Một ông thầy tự trọng thì dù mặc cái áo cũ hay áo mới cũng không coi là quan trọng. Ai cho áo mới thì cảm ơn, nhưng không vồn vã quá. Bây giờ các con còn nhỏ, nếu không được giáo dục như thế, khi lớn lên con không thể nào trở thành một người cha, người mẹ tốt trong gia đình và một người công dân tốt cho xã hội được.
Bây giờ thì cả cha mẹ tôi và Thầy Tùng, vị linh mục khả kính của tôi đã qua đời. Tôi đã thay vào chỗ của cha mẹ, đến lượt đưa con tới trường. Rồi các con tôi lại đưa con của chúng tới trường. Chúng tôi cùng cố gắng dạy cho trẻ nhỏ biết kính trọng thầy cô như chính chúng tôi cũng biết kính trọng những người dậy dỗ con cháu mình, vì cái gương đẹp nhất bao giờ cũng từ cha mẹ.
Ơn cha nghĩa mẹ công thầy
Ở sao cho xứng phận này làm con.
Câu thơ trên tôi được học từ nhỏ, vẫn nhớ tới bây giờ.
Trần Mộng Tú