Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

Thơ : KHÔNG THỂ ĐỢI - Gió Miền Tây.

 



KHÔNG THỂ ĐỢI... 

Trên thế gian, gì cũng có thể chờ

Không làm trước thì làm sau, chẳng vội

Riêng hiếu kính mẹ cha, không thể đợi

Ngày mai biết còn cơ hội hay không?


Chuối chín cây, gió vẫn thổi không ngừng

Lay mạnh thế, chẳng mấy mà rơi rụng

Muốn phụng dưỡng, đừng cầu mong gió lặng

Làm gì đi, kẻo ân hận cả đời!


Từ lúc được sinh ra làm kiếp con người

Học nói học ăn, thành gia lập thất

Có bước đi nào mẹ cha không có mặt?

Công dưỡng dục của Người nặng tựa Thái Sơn!


Tự hứa với lòng mình sẽ đền đáp công ơn

Nhưng thời gian không thể chờ ta được

Nhân sinh vốn vô thường, sinh mệnh thì yếu ớt

Chỉ một chớp mắt thôi, âm dương cách biệt rồi!


Sống trên đời, nào biết trước ngày mai?

Quy luật của tự nhiên, chẳng ai thay đổi được

Sinh–lão–bệnh–tử là… thường tình, không thể khác

Phải chấp nhận nó thôi, ai cũng vậy cả mà!


Có thể nào chọn cửa để sinh ra

Con bần cố nông hay con nhà quyền quý?

Xuất thân từ đâu, nói được gì đâu nhỉ?

Quan trọng là đối xử thế nào thôi!


Mẹ cũng như cha, chỉ có một trên đời

Hai nửa yêu thương, hai nụ cười đôn hậu

Đạo làm con, nhủ lòng luôn hiểu thấu

Hiếu kính Người, không thể đợi ngày mai.

GIÓ MIỀN TÂY ( FB ) 

Ngẫm : TÌNH ANH EM - St trên FB.

  


TÌNH ANH EM. 

Cậu bé cõng em trai đến tận cùng - Buchenwald, Đức, năm 1945

Trong những tháng cuối cùng của Thế chiến thứ hai, Buchenwald là một nơi đầy đói khát, bệnh tật và nỗi đau khổ thầm lặng. 

Trong số các tù nhân có hai anh em người Do Thái mồ côi - một người quá yếu không thể đi lại, người kia quyết tâm không bỏ rơi em mình. 

Cậu bé lớn hơn cõng em trai nhỏ trên lưng qua mỗi lần điểm danh, mỗi lần xếp hàng nhận thức ăn, mỗi đêm lạnh giá trên sàn nhà trại giam lạnh lẽo. 

Ngay cả khi sức lực của chính mình cạn kiệt, cậu vẫn không bao giờ buông tay.

Khi quân đội Mỹ giải phóng trại vào năm 1945, họ tìm thấy người anh trai gục ngã trong tuyết - người em trai yếu ớt vẫn nằm trong vòng tay anh, còn sống. 

Người anh trai qua đời chỉ vài giờ sau đó, cơ thể kiệt sức vì sự tận tâm không ngừng nghỉ. 

Người em trai, người sau này lớn lên và kể lại câu chuyện của họ, từng nói:

“Anh ấy đã cõng tôi vượt qua địa ngục.” 

Đó không chỉ là sự sống sót - đó là sự hy sinh đã mang lại tương lai cho một đứa trẻ.

SƯU TẦM. 

Thơ : HÔM ANH CƯỚI VỢ - Tiểu tử HK.

 



HÔM ANH CƯỚI VỢ. 

Cái hôm anh cưới vợ

Lúa vừa mới trổ đòng

Chị tôi buồn duyên lỡ

Khóc suốt một mùa đông


Ngày xưa anh đã bảo

Lúa chín anh sẽ về

Chị tôi làm con sáo

Nhốt mình ở sông quê


Mười năm dài đằng đẵng

Một hôm anh trở về

Bên người mặc váy trắng

Đi dọc trên triền đê


Chị tôi đang cấy lúa

Thấy anh - điếng lặng người

Mạ non bỗng héo úa

Trên tay chị rụng rơi


Rồi anh cùng với họ

Đắp xây duyên cau trầu

Lúa trổ đòng nức nở

Gục bên ngọn cỏ lau


Ba năm trời dai dẳng

Chị tôi vẫn nặng tình

Một ngày gió yên lặng

Lúa rũ mình ... lặng thinh


Tôi đeo vành khăn trắng

Tạ bao người chia buồn

Hôm ấy trời không nắng

Lúa ngoài đồng thê lương


Mạ non ai mới cấy

Gió chẳng buồn lắt lay

Người cũng không về lại

Nhìn chị tôi ngủ say...


Hôm nay đồng bát ngát

Mùi thơm lúa vàng bông

Tôi nghe người ta hát

"Chị tôi chưa lấy chồng..."


(Tác giả: Tiểu Tử HK).

Ảnh Cao Anh Tuấn

Hương xưa : 60 MÙA THU... - Lê Nguyễn.

 6



60 MÙA THU TRƯỚC... 

Lẩm cẩm chuyện ngày xưa

60 MÙA THU TRƯỚC, MỘT THỜI VĂN NGHỆ HỌC SINH


       Thế hệ học sinh tại miền Nam những năm 1950  “hiền”  lắm! Hai thú vui lành mạnh nhất của họ sau những giờ học mệt nhọc là đi bát phố và chui vào rạp xi nê permanent (thường trực) giá 5 đồng một vé, muốn vào lúc nào, muốn ra lúc nào cũng được. Ở thế hệ này, cũng không phải không có những thành phần bị dư luận đàm tiếu, tuy không nhiều. Đó là những cậu “tuổi teen” (mượn từ ngữ bây giờ), con nhà tương đối khá giả, ăn diện, mặc quần ống túm, áo sơ mi ca-rô, giày “béch-ca-na” (giày mũi nhọn, hơi hếch lên như mỏ (bec) con vịt (canard). Họ bị liệt vào hạng “cao bồi” (cowboy) cho dù chẳng ai đi chăn bò hết. Thật ra, họ cũng chẳng làm hại gì cho xã hội, chỉ cái tội túm tụm, ăn chơi nhiều hơn học hành.    

       Với đám học sinh “con nhà lành”, ngoài chuyện bát phố, xem xi-nê, một số bạn có máu mê văn nghệ tham gia vào phong trào “văn nghệ học sinh”,  rầm rộ từ nửa sau thập niên 1950. Thôi thì các “thi văn đoàn” (chữ thời ấy) mọc lên như nấm. Ở trường học, họ viết “bích báo” (giờ gọi là báo tường), ai có khả năng hơn thì làm thơ gửi đăng trên các báo, nhiều nhất là các nhật báo đương thời:  Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Lẽ Sống, Sài Gòn Mới, Ngôn Luận, Tiếng Dân, Dân Nguyện …. Báo nào cũng dành một hai cột mỗi ngày đăng thơ của bạn đọc gửi về,  phần lớn là của các bạn học sinh. Riêng tờ Ngôn Luận của ông Hồ Anh dành hẳn một trang ruột ngày chủ nhật đăng thơ và văn của các bạn trẻ. Trang này khá sôi động, người phụ trách có một cái tên rất ư lãng mạn là “chị Kiều Diễm Hồng”, mãi về sau mới biết đó là nhà văn phái nam Phạm Cao Củng, trước 1954 chuyên viết truyện trinh thám. 

      Thời đó, hai trong những nhà thơ học sinh được nhiều người biết đến nhất là Vương Đức Lệ, bút danh đọc lái từ tên Lê Đức Vượng, và Thanh Việt Thanh (ở Biên Hòa). Khoảng năm 1957-1958,  nhà thơ Nguyễn Vỹ sáng lập và điều hành tờ tạp chí Phổ Thông với sự góp mặt của nhiều cây bút tên tuổi, riêng ông cũng đăng nhiều bài viết, ngoài tên thật, còn có ít nhất hai bút danh là Tân Phong và cô Diệu Huyền (mục “Mình ơi”). Khoảng năm 1959, ông Nguyễn Vỹ mở ra trên tạp chí Phổ Thông một cuộc thi thơ thú vị, với chủ đề là một câu thơ “Thu ơi, ai nhuộm lá thu vàng”, thơ dự thi làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Hàng trăm bài thơ được chọn đăng, trong đó có thơ của một số cây bút tên tuổi.

      Trong số những độc giả đầu tiên của tạp chí Phổ Thông lúc ấy, có một cậu học sinh 13-14 tuổi đang học lớp Đệ Ngũ (lớp 8 ngày nay), mê văn nghệ và tập tễnh làm thơ. Còn nhớ trong 3 số đầu tiên của tạp chí Phổ Thông, có mục giới thiệu lần lượt ba nhà thơ, hai người trẻ và một người không trẻ lắm. Người không trẻ lắm đâu khoảng 31 tuổi, được giới thiệu trong số báo đầu tiên, có bút danh Hà Liên Tử (Nguyễn Ngọc Biện), người thứ nhì là Thanh Nhung, khoảng 18 tuổi, nữ sinh trường trung học Võ Tánh, Nha Trang. Cô gái này có mái tóc đen dài, phủ xuống gương mặt trái soan, trông rất dễ thương, thơ rất chững chạc. Nhà thơ trẻ thứ ba là Như Lan, khoảng hơn 20 tuổi, là người mà cậu học sinh 14 tuổi có một món nợ không trả được. 

     Bài giới thiệu nhà thơ trẻ Như Lan có trích một vài đoạn thơ tiêu biểu, trong đó có hai câu:

Ngoài hiên vắng con bướm vàng lịm chết

Tôi ngỡ ngàng trời đã tắt mùa Thu

(Đã hơn 60 năm, có thể nhớ sai 1-2 chữ)

       Hai câu thơ bỗng trở thành cái phao cho cậu thiếu niên đang lênh đênh trên biển văn nghệ, chưa biết tìm cho mình bút danh gì. Hai chữ “bướm vàng” đã giúp chàng tìm ra lối thoát, đặt cho mình cái bút danh Hoàng Điệp. Và cái bút danh ấy bắt đầu xuất hiện trong một bài thơ ngắn đăng trên báo Ngôn Luận năm tác giả ở tuổi 15 (1959) và kết thúc sự tồn tại của nó vào giữa năm 1963, với hai bài thơ được thi sĩ Vũ Hoàng Chương chọn đăng trong mục “Thơ và Thi nhân”  trong hai số báo Tự Do ngày chủ nhật của ông Phạm Việt Tuyền. 

      Những năm 1959-1960  ấy, chàng “thi nhân” trẻ tuổi  rải thơ trên hầu hết các tờ  báo, và một trong những kỷ niệm đáng nhớ là với tờ Tiếng Dân, mục thơ do ba văn nghệ sĩ đã thành danh chọn lựa và có lời bình là Thanh Nam, Văn Quang và Nhất Tuấn (tác giả bài thơ “Chủ nhật này Trẫm nhớ Ái khanh không?”). Mục thơ của báo có tên là “Thơ Tâm Tình”,  nhiều bài đăng về sau được báo chọn in trong quyển “Tuyển tập thơ tâm tình”.      

     Sau 1975, tôi làm lạc mất tuyển tập thơ này, quên hết 99%  số bài trong đó, kể cả bài của tôi. Song lạ thay, bài duy nhất còn đọng lại trong ký ức của tôi mãi đến ngày nay lại là bài của một người con gái có cái tên khá lạ. Đó là một bài tình buồn, đằm thắm và đầy cảm xúc:

(QUÊN MẤT TỰA)

Ngày mai anh đã đi rồi!

Buồn lên đôi mắt nửa vời thương đau.

Thôi đừng tính chuyện ngày sau,

Sầu tâm tư đã lên màu khói sương.

Đâu anh lối cũ thiên đường,

Hồn ngây ngất đợi chán chường đấy ư?

Cúi đầu vọng bước tương tư,

Hồn cuồng phong, phút tạ từ mong manh.

Đây môi thơm đợi chờ anh,

Xin hôn đi, để em thành cố nhân! 

Lệ rơi đã lạnh bàn chân, 

Từ đây buồn cả mùa Xuân cuộc đời,

Tiếng ru sầu rụng bên trời,

Còn bâng khuâng tưởng bóng người ngày xưa!

TRẦN LƯU HỒNG LIÊN

       Hai câu: “Đây môi thơm đợi chờ anh / Xin hôn đi, để em thành cố nhân! “ thật tinh tế và tuyệt vời, chúng vượt xa tầm của một bài thơ văn nghệ học sinh, xứng đáng được đứng chung với những câu thơ để đời trong làng nghệ thuật. Chúng toát ra nỗi buồn đằm thắm, chịu đựng và đầy nét bao dung của người con gái bị tình phụ! Có lẽ ấn tượng mạnh về chúng đã khiến tôi nhiều lần đọc cả bài thơ và nhớ xuyên suốt đến bây giờ.

     Bài thơ được trình làng khi tôi mới 16-17 tuổi, người con gái làm bài thơ ấy chắc phải hơn tuổi tôi ít nhiều. Ngày nay, nếu còn sống, chị đã là một bà lão trên dưới 80, không chắc chị còn nhớ trọn vẹn bài thơ ấy, và khi biết rằng có một cậu học trò năm xưa  nhớ mãi bài thơ của mình trong suốt  60 năm trời, chắc là chị ngạc nhiên lắm!


***

       Trở lại chuyện văn nghệ học sinh,  chuyển biến đáng kể nhất trong thời tuổi trẻ của tôi là với tờ Bán nguyệt san Gió Mới thuộc Tổng Liên đoàn Học sinh , khi tôi đang ở tuổi 16, bắt đầu học lớp Đệ Nhị trường công lập Hồ Ngọc Cẩn, Gia Định (1960). Tờ báo của bộ ba Trần Văn Sơn (chủ nhiệm), Đinh Từ Thức (chủ bút) và Nguyễn Triết Lý (Tổng Thư ký tòa soạn). Tổ chức TLĐHS hoàn toàn độc lập với Bộ Quốc gia Giáo dục, từng có nhiều bài đả kích chính sách giáo dục của ông Bộ trưởng Trần Hữu Thế, về sau thì ủng hộ chương trình hành động của ông Bộ trưởng Nguyễn Quang Trình, nguyên Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn.

     Gió Mới là một tờ báo rất đứng đắn, thường có bài của những cây bút khả kính như  Nguyễn Thiệu Lâu (lịch sử), linh mục Trần Văn Kiệm (khoa học), Lê Giang Huân … Báo in tại nhà in Nguyễn Đình Vượng là cơ sở ấn loát nổi tiếng in đẹp lúc bấy giờ, chữ in gãy gọn, không  lem luốc (vì chữ chì bị mòn) như nhiều báo khác. Đặc biệt, tờ Gió Mới dành cho thơ một sự trang trọng  rất đáng quý, bài thơ nào cũng được in chữ to, nét nghiêng và đóng khung  nghiêm chỉnh. Đặc biệt hơn nữa, trong khi các báo khác chỉ trả lời qua loa số bài đã nhận được của độc giả gửi đến, với câu quen thuộc “bài không đăng không trả lại bản thảo” thì Gió Mới là tờ báo duy nhất trả lời từng người một về số phận bài họ gửi đăng, bài nào “sẽ đăng trong một số tới”, bài nào “rất tiếc không đăng được” đều được trả lời rành mạch, rõ ràng.

     Thời đó, ngoài các ký giả cơ hữu của tòa soạn báo làm việc có lương hướng, hầu hết bài viết (thơ, văn) của người ngoài gửi về được tòa soạn xem là “lai cảo”, được chọn đăng là một vinh dự, không có nhuận bút bao giờ, nhiều lắm là một tờ báo biếu. Tất nhiên, với những thi tài vang danh bốn bể như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, thì vấn đề có thể khác. Họ thường được các tòa soạn “xin bài”, có nhuận bút hay không, chỉ hai bên biết.

    Vào những năm 1960-1961, tờ BNS Gió Mới là nơi “thường trú” của một số cây bút văn nghệ học sinh đã tương đối già giặn, gồm hầu hết ở miền Trung (Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng …)  Đó là những Lam Hồ (nhóm Cùng Đi Một Đường), Luân Hoán, Mặc Phương Đình, Mặc Trúc Sơn Phạm Đình Hiệu, Thạch Nhân, IP Lê Lương Nguyên …, riêng đại diện Sài Gòn chỉ thấy có cậu học sinh …Hoàng Điệp. Anh chàng kể sau cùng này có 4 bài thơ đăng trong tờ Gió Mới khổ lớn (cũ) và 3 bài trong tờ khổ nhỏ (mới) xuất hiện khoảng năm 1962, lúc ấy mục thơ do nhà thơ Nguyên Sa phụ trách. Tờ Gió Mới khổ nhỏ ra hàng tháng đến mười mấy số thì đình bản. Trong số những tên tuổi  “văn nghệ học sinh” kể trên, có người nay còn sống ở Việt Nam, có người đang sống ở nước ngoài, có người không còn nữa.

     Mùa Thu năm 1960, tờ Gió Mới số 75 dành hơn nửa trang lớn (trang 3) đăng thông điệp của Tổng thống Ngô Đình Diệm nhân kỷ niệm Thánh đản đức Khổng Tử. Thời đó, học thuyết của Khổng Tử vẫn còn đắc dụng trong học giới, không bị lạm dụng bát nháo vào những mục tiêu chính trị như bây giờ, nên hàng năm, đích thân Tổng thống VNCH gửi thông điệp cho dân để nhắc nhở về một nền tảng đạo lý của cha ông. Có lẽ do bức thông điệp chỉ chiếm hơn nửa trang báo lớn nên bài thơ Thu Về của chàng trai 16 tuổi có vinh dự được trám vào khoảng trống, chung một trang với văn kiện quan trọng này. 

      Đó là chút kỷ niệm về một mủa Thu cũ, vẫn còn đậm nét sau đúng 60 năm!


LÊ NGUYỄN 

Trung Thu 2020

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Bài học : CÁI GIÁ CỦA KIÊU NGẠO - St trên FB.

 



CÁI GIÁ CỦA KIÊU NGẠO. 

Có một anh chàng dắt theo một con chó ngao Tây Tạng trị giá cả bạc triệu ra ngoài đi dạo. 

Anh ta hễ gặp ai cũng đều đem con chó ra khoe, lại còn huyênh hoang mà nói rằng: 

“Người nếu là không có bốn năm trăm cân sức lực thì kéo cũng không kéo nổi chú chó của tôi”.

Lúc này, anh chàng nhìn thấy một ông già ngồi bên đường cùng với một con chó gần như đã rụng hết lông đang ngồi bên cạnh.

Con chó ngao Tây Tạng của anh ta hướng về phía con chó đó kêu sủa ầm ĩ, nhưng con chó già kia không thèm để ý đến nó.

Chàng trai cảm thấy không vui. Nói rằng: 

“Ông lão này! .Con chó của ông lớn thế kia, là giống chó gì vậy? .Hãy để hai con chó của chúng ta đấu với nhau thử xem? .Nếu chó của ông thua hãy đưa cho tôi 500 đồng, còn nếu chó ngao Tây Tạng của tôi thua thì tôi sẽ đưa cho ông 2000 đồng”.

Ông lão nói: 

“Tôi đang lo lắng về thức ăn tháng sau của anh bạn già này đây! .Nếu được thì hãy đánh cược lớn hơn một chút? .Nếu chó của tôi thua, tôi sẽ đưa cho anh 5 vạn, còn nếu chó của anh thua thì anh hãy đưa cho tôi 3 vạn”.

Anh chàng cười lớn:

“Con chó này của tôi là giống chó ngao Tây Tạng thuần chủng. Sau này, ông đừng có nói là tôi đã không nói cho ông biết trước. Được thôi!”.

Hai con chó giao tranh chưa được hai phút, chó ngao Tây Tạng kia đã bị cắn tơi bời , m áu me khắp nơi .Nó vô cùng khiểp sợ  nến không còn dám kêu sủa gì nữa.

Anh chàng thua mất 3 vạn đồng, vô cùng sầu não: 

“Ông này, con chó đó của ông là chó gì thế? .Sao lại dũng mãnh đến thế kia?”.

Ông lão vừa đếm tiền vừa nói: 

“Đến bây giờ tôi cũng không biết nó là chó gì nữa, trước khi chưa rụng lông thì gọi là sư tử!”.


Bài học rút ra:

Ở trong đời sống, nên ”Biết người biết ta”,

Dù mạnh mẽ thế nào, có tài giỏi tới đâu. Cũng nên khiêm nhường một chút, đừng quá kiêu căng và ngạo mạn...


St.

Đỡ buồn : LỜI NÓI - St trên FB.

 




LỜI NÓI. 

Muỗi đực về nhà nói với vợ 

 -Anh sẽ đi cắn con bò, con voi và mang về cả xô máu cho em.

Muỗi cái.

 -Ừ, tuyệt lắm. Giờ đi ngủ đi.

Muỗi đực: 

 -Anh sẽ đưa em đi du lịch Sapa bằng xe Mercedes, đi du lịch thế giới bằng du thuyền hạng nhất, qua Paris đi shopping .

Muỗi cái.

  -Được rồi... Ngủ đi anh."

Muỗi đực: 

  -Em không tin anh à? Anh sẽ mua cho em một bộ gậy golf Honma Beres 2020 5 sao Fullset , một bộ sưu tập đồng hồ như Piaget, Rolex, Richard Miles ..

Muỗi cái.

- Trời ơi, đi ngủ ngay đi.

Muỗi đực: 

  -Anh sẽ làm tất cả vì em, tình yêu của anh."

Muỗi cái: 

  -Em đã nói bao nhiêu lần rồi? Đừng có về nhà sau khi đi cắn mấy ông lãnh đạo nữa!

SƯU TẦM. 

Quê hương : CÁI TỘ - St trên FB.




 CÁI TỘ !

Nhiều người thắc mắc tại sao cá rô kho tô mà lại gọi là kho tộ .

Thật ra hồi xưa ở miền quê Nam Kỳ cái tô chỉ lớn hơn cái chén một chút mà thôi . Cái tô lớn hơn người lớn hồi đó gọi là cái tộ . Cái tô to nhứt gọi là cái tượng .

Sau này hình như lớn nhỏ gì người ta cũng gọi là tô .

Món cá kho tộ sau nầy mấy quán ăn kho bằng cái ơ bằng đất nung . Nhưng nhiều người thành thị không rành nên gọi là nồi đất .


Ảnh cái tộ vùng Bến Tre xưa

#mientaymenyeu

Suy ngẫm : CẢNH GIỚI CỦA GIÁO DỤC - Sưu tầm. UB

 




CẢNH GIỚI CỦA GIÁO DỤC 

Đây mới là cảnh giới cao nhất của giáo dục

Mục đích cao nhất, cảnh giới cao nhất của giáo dục ở các thời đại là gì? Phải chăng là để bồi dưỡng ra những nhân tài kiệt xuất, những kiến trúc sư giỏi, những bác sĩ giỏi hay những nhà kinh doanh tài ba tạo ra nhiều tiền của, vật chất cho xã hội. Kỳ thực, hết thảy những điều này đều không phải cảnh giới cao nhất của giáo dục!

Trước đây, một vị giáo sư người Mỹ đã kể câu chuyện: Vào một buổi sáng sớm sau khi cơn bão đi qua, có một người đàn ông đi tản bộ trên bờ biển. Ông ta nhìn thấy rất nhiều vũng nước to nhỏ, trong đó có những con cá nhỏ bị bão táp đêm qua cuốn lên và mắc cạn ở đó. Những con cá nhỏ bị mắc cạn ở đó có lẽ lên tới mấy trăm con, thậm chí cả ngàn con. Người đàn ông biết rằng chẳng bao lâu nữa, mặt trời lên và nước sẽ bị cát hút khô, những con cá ấy sẽ bị khô cạn mà chết hết.

Đang suy nghĩ như vậy, ông ta nhìn thấy trên bờ biển có một cậu bé không ngừng nhặt những con cá nhỏ từ trong các vũng nước lên và ném chúng xuống biển. Người đàn ông tiến lại gần đứa trẻ và nói: “Này cậu bé, trong những vũng nước này có hàng trăm, ngàn con cá, cháu cứu không nổi đâu!”

“Cháu biết điều đó!” Cậu bé không ngừng nhặt cá và trả lời.

Người đàn ông nói tiếp: “Ồ! Vậy cháu vẫn tiếp tục ném những con cá này xuống biển sao? Có ai quan tâm đâu?”

Cậu bé vẫn không ngừng nhặt cá và nói: “Nhưng những con cá nhỏ này quan tâm!”

Quả thực, câu chuyện nhỏ này rất tương ứng với một câu nói của nhà thơ vĩ đại Tagore: “Mục đích của giáo dục là phải truyền tải được hơi thở của mạng sống cho con người”. Bởi vậy, “giáo dục” là bắt đầu từ việc tôn trọng sinh mệnh, khiến nhân tính hướng thiện, khiến con người có tấm lòng rộng mở, và càng phải khơi dậy được “thiện căn” tốt đẹp của con người.

Trước đây, có một nạn nhân sống sót tại trại tập trung của Đức Quốc xã từng trở thành hiệu trưởng của một trường trung học ở Mỹ.

Mỗi khi có một giáo viên mới đến trường, ông đều gửi cho người đó một bức thư, trong đó viết rằng: “Thầy/cô giáo thân mến! Tôi đã từng tận mắt chứng kiến những tình cảnh mà nhân loại không nên thấy, những phòng khí độc do các chuyên gia là kiến trúc sư kiến tạo ra, những trẻ em bị các bác sĩ uyên bác hạ độc, những trẻ sơ sinh bị các hộ sĩ được huấn luyện sát hại. Chứng kiến hết thảy những chuyện này, tôi tự hỏi: Giáo dục rốt cuộc là vì điều gì?

Tôi thỉnh cầu các bạn, hãy trợ giúp học trò của mình trở thành những con người có nhân tính. Chỉ khi học trò của các bạn trở thành những người có nhân tính thì các năng lực đọc, viết, tính toán của các em mới có giá trị”.

Một điều rất hiển nhiên rằng, con người có một mặt là Thú tính và một mặt là Thiên sứ. Mục đích của giáo dục là khiến linh hồn của con người được tôi luyện, vượt qua thú tính mà chuyển hóa về mặt Thiên sứ.

Giáo dục là giáo dục linh hồn con người, chứ không chỉ đơn thuần là nhồi nhét các nhận thức và tri thức lý trí. Mục đích cuối cùng của giáo dục lâu dài và vĩ đại. Nếu không, tri thức của bạn càng nhiều, thì chỉ càng nguy hại đối với nhân loại và đối với sinh mệnh.

Hiện nay, việc giáo dục trong trường học của chúng ta thường không coi trọng việc giáo dưỡng nhân cách cơ bản, đạo đức cơ bản, tình cảm cơ bản của học sinh. Điều đó khiến cho một bộ phận không nhỏ học sinh thờ ơ, lãnh đạm với mạng sống của người khác, thờ ơ với thế sự, đến mức lạnh lùng cay nghiệt.

Vậy nên, một vị chuyên gia giáo dục Nhật Bản đã nói một câu như thế này: “Chúng ta cần bồi dưỡng cho học trò đối mặt với một khóm cúc dại mà cảm xúc dâng trào, trống ngực đập thình thịch” . Loại tình cảm này cũng chính là cảm xúc của cậu bé trước những con cá bị mắc cạn trên bờ biển ở câu chuyện trên.

Nếu như nhìn thấy một con cá hoặc cây cỏ đều không thấy có giá trị gì, sẵn sàng chà đạp, thì cho dù điểm số các môn học ở trường đạt rất cao, cũng đã mất đi giá trị nhân sinh đáng quý trong đời.

Tôn trọng con người, tôn kính vũ trụ, chính là tôn trọng sự tồn tại của sinh mệnh, biết được sinh mệnh là vô cùng trân quý. Con người không được tự dưng cướp đoạt sinh mệnh, cho dù đó là những sinh mệnh cấp thấp thế nào đi nữa.

Là một người mà đối với sinh vật hoặc động vật cấp thấp đều không hề có tình cảm yêu mến, thì có thể hy vọng người đó tôn trọng với sinh mệnh cao cấp hơn hay không? Trái lại, là một người mà trong lòng luôn tràn ngập tình yêu thương, quan tâm tới cây cỏ, hay dù là một con cá nhỏ, thì đối với sinh mệnh cao cấp hơn, đối với tính mạng con người, người đó chắc chắn cũng sẽ tôn trọng.

Cổ nhân nói: “Không gì bi thương hơn những ai có trái tim đã chết”. Một người mà lạnh lùng vô cảm đối với thế giới bên ngoài thì chính là một người không còn hy vọng. Một dân tộc thờ ơ coi thường mạng sống của người dân là một dân tộc không có tương lai.

Trong giáo dục, có lẽ có rất nhiều công việc cụ thể phải làm, có rất nhiều việc cụ thể phải nắm bắt. Nhưng việc bồi dưỡng học trò tốt nhất chính là bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng những giá trị nhân văn, trong đó căn bản nhất, quan trọng nhất chính là đánh thức lương tri biết trân quý, tôn trọng sinh mệnh của học trò.


An Hòa

 (dịch theo sự cho phép của tác giả)

Cuộc sống : AI VÀ TƯƠNG LAI... - Hoàng Tư Giang (FB)

 



AI VÀ TƯƠNG LAI CỦA CON NGƯỜI. 

Gần đây, tôi hay tìm đọc và nghe Geoffrey Hinton, giáo sư người Anh gốc Canada, chủ nhân giải Nobel Vật lý 2024 và được mệnh danh là “cha đỡ đầu của trí tuệ nhân tạo”. Ông ấy đưa ra những cảnh báo gây chấn động về tương lai của loài người trong kỷ nguyên AI.

Theo Hinton, khả năng trí tuệ nhân tạo có thể dẫn đến sự diệt vong của nhân loại trong vòng 30 năm tới là 10–20% – một tỷ lệ đủ lớn để không thể xem nhẹ. Ông thậm chí hạ cảnh báo xuống còn 19 năm trong cuộc phỏng vấn mới đây.

Điều khiến cảnh báo của ông có sức nặng đặc biệt là xuất phát từ chính nhà khoa học đã đặt nền móng cho học sâu (deep learning), công nghệ cốt lõi tạo nên ChatGPT hay hệ thống nhận diện hình ảnh hiện nay.

Ông chỉ ra rằng, một khi các hệ thống AI đủ mạnh để tự đặt mục tiêu, chúng sẽ tìm cách tự tồn tại, và từ đó vượt khỏi sự kiểm soát của con người. “Chúng ta chưa từng đối mặt với những cỗ máy thông minh hơn mình. Một khi điều đó xảy ra, hậu quả sẽ không thể lường trước,” Hinton nhấn mạnh.

Không chỉ dừng ở nguy cơ tận thế, ông còn cảnh báo về những tác động xã hội gần hơn: hàng triệu việc làm có thể biến mất khi AI thay thế cả những nghề đỉnh cao trí thức; quyền lực công nghệ tập trung vào một số tập đoàn sẽ làm gia tăng bất bình đẳng; và AI có thể bị lạm dụng để sản xuất thông tin giả, thao túng dư luận hoặc thậm chí thiết kế vũ khí sinh học.

Hinton cho rằng các biện pháp quản lý hiện nay của các công ty công nghệ là chưa đủ. Ông đề xuất một ý tưởng táo bạo: lập trình cho AI một “bản năng làm mẹ” – một dạng động lực gốc rễ để bảo vệ loài người thay vì hủy diệt. Dù còn mơ hồ về mặt kỹ thuật, ông coi đây là lời kêu gọi cộng đồng khoa học cùng nghiên cứu, giống như cách nhân loại từng xây dựng hiệp ước kiểm soát vũ khí hạt nhân.

Điều trớ trêu là chính Hinton cũng thừa nhận: AI đã quá hữu ích để con người có thể dừng lại. Nó mang lại đột phá trong y tế, năng lượng, giáo dục, nhưng nếu phát triển mà không đi kèm biện pháp an toàn thì cũng có thể trở thành mối đe dọa lớn nhất trong lịch sử.

Lời cảnh báo của “cha đỡ đầu AI” vì thế vừa là hồi chuông báo động, vừa là lời nhắn gửi: tương lai sẽ được định hình không chỉ bởi sức mạnh công nghệ, mà bởi trách nhiệm và lựa chọn của nhân loại hôm nay.

HOÀNG TƯ GIANG (FB) 

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

Thơ: VĂN TẾ THẬP LỌAI... - Nguyễn Duy.

 


Thơ Nguyễn Duy

VĂN TẾ THẬP LOẠI PHÊ BÌNH*

Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt

(Nguyễn Du)


Ủa tôi nay sức cùng lực kiệt

Các loại chi tê liệt cả rồi

May còn tí chút tàn hơi

Dướn lòng hổn hển đôi lời ruột gan


Làng văn ta đã làm hết sức

Trời cho cao đến mức ấy rồi

Không cao hơn được thì thôi

Cầu mong chớ để lần hồi thấp hơn.


Xưa nay việc văn chương đã khó

Việc bình văn còn khó bội phần

Mắt xanh là mắt có thần

Có tài có đức có tâm mới thành


Bình – không phải phê bình loạn xạ

Nơi con phe lang chạ chen vào

Hàng tôm hàng cá ồn ào

Người nách thước kẻ tay dao tung hoành.


Có trường phái phê bình Móc Máy

Xáy bùn như cua cáy đào hang

Gian thương nâng giá dìm hàng

Giả trang, rạch mặt la làng, động kinh...


Có trường phái phê bình Ú Ớ

Lý sự cùn dạy dỗ lông nhông

Khen chê uốn éo lòng thòng

Xem đi soi lại vẫn không có gì.


Có trường phái rất chi Siêu Quậy

Nước hồ trong sục khuấy đục chơi

Dở người dở ngợm dở hơi

Hỏa mù gây rối lôi thôi giải sầu.


Có trường phái chuyên sâu Chọc Ngoáy

Châm người này và kháy người kia

Loe nhoe thọc gậy bánh xe

Loăng quăng ném đá lia chia đỡ buồn.


Có trường phái chủ trương Bôi Bác

Kim chỉ nam là trát nhọ nồi

Đỉnh cao là học thuyết Bôi

Bôi đen bôi đỏ bôi vôi cửa đình


Có trường phái phê bình Nham Hiểm

Tố người lành chỉ điểm người ngay

Luyện công ném đá giấu tay

Nhâng nhâng mặt dạn mày dày nghênh ngang


Anh Chí chửi cả làng Vũ Đại

Dân làng ai cũng ngại dây vào

Mặc cho thỏa sức gầm gào

Vẫn e anh ngoáy một dao thình lình


Có trường phái phê bình Phù Thịnh

Chọn nâng bi xu nịnh làm nghề

Kệ cho tai tiếng ê chề

Nhờn môi xôi thịt phủ phê cũng đành


Có trường phái phê bình Sát Thát

Vu cáo và ám sát như không

Áo cà sa rất nâu sồng

Dao găm súng lục lận trong lưng quần


Có trường phái thằn lằn Lươn Lẹo

Lưỡi không xương lắt léo khôn cùng

Quay xe, tráo trở, gian hùng

Sớm đầu tối đánh lung tung lộn phèo.


Có trường phái quái chiêu Sân Hận

Định hướng chuyên ngậm bẩn phun người

Eo ôi miệng lưỡi tanh hôi

Ấy là cửa ngõ hồn người hôi tanh


Phàm chủng loại phê bình Tà Giáo

Hãy chung tay diệt bạo trừ gian

Cầm cân nảy mực đàng hoàng

Cho văn chương Việt ngày càng Đẹp hơn...


Thy sĩ Ủa

Rằm tháng Bảy - Ất Tỵ


(6.9.2025)

Thơ: KHÓI CHIỀU - Phạm Thanh Chương.

 


KHÓI CHIỀU


Lòng vẫn tưởng trong ngày ta trở lại

Dưới hiên xưa mẹ ngồi đợi ta về

Đám mây cũ sau nhà bay lặng lẽ

Cụm khói chiều quanh quẩn dưới trời quê


Con sông nhỏ bến đò xưa thơ ấu

Hàng dừa cao lồng lộng trước sân nhà

Nắng vàng rụng trên cánh đồng cỏ biếc

Bếp lửa hồng ấm lại những ngày qua


Mười năm ấy ngày ta về đã khác

Mảnh sân rêu lá úa ngập rơi đầy

Chỗ mẹ ngồi bao giờ ta quên được

Dẫu bụi mờ hương khói ở quanh đây


Chiều chầm chậm rơi dần ngoài đầu ngõ

Mẹ chờ ta lặng lẽ những tháng ngày

Giàn thiên lý mẹ trồng khi ta lớn

Mùi hương còn thoang thoảng dưới mưa bay


(Nhà thơ Phạm Thanh Chương)

Tranh của hoạ sĩ Lê Anh Thanh

Suy ngẫm : LỜI CẢNH BÁO... - Sưu tầm.


 


LỜI CẢNH BÁO CỦA NGƯỜI XƯA... 

Khổng Tử có học trò tên Mỗ, người nước Đằng. Mỗ học vào loại trung bình, song luôn luôn tự cho mình là giỏi nhất. Học được vài năm, Mỗ xin về nước vì tưởng rằng đã học hết đạo của thầy.

Tử Cống thấy vậy hỏi:

- Người ấy về nước rồi làm quan có sao không?

Khổng Tử rung đùi đáp:

- Không sao.

Lại hỏi tiếp:

- Làm tướng có được không?

Khổng Tử vuốt râu đáp:

- Được.

Lại hỏi tiếp:

- Thế nhỡ về làm giặc?

Khổng Tử vừa ngáp vừa trả lời:

- Cũng không hại gì.

Bấy giờ Tử Cống mới yên tâm mà thủng thẳng:

- Nghe nói Mỗ xin về nước chỉ để làm thầy!

Khổng Tử vừa nghe câu đó, bỗng giật bắn mình. Thế là chân không kịp xỏ giày, áo không kịp cài khuy, vội vàng lao ra cổng chạy như hớt hơ hớt hải. Học trò đuổi theo hỏi: “thầy chạy đi đâu?”. Khổng Tử vừa chạy vừa đáp:

- Sang ngay nước Đằng.

Học trò lại hỏi: “sang nước Đằng làm gì?”.

Khổng Tử vẫn vừa chạy vừa trả lời:

- Sang ngăn không cho tên Mỗ làm thầy. Hắn có làm quan thì cùng lắm chỉ hại đến một ấp. Làm tướng cũng chỉ hại đến một thành. Thậm chí có làm giặc cũng chưa chắc đã hại nổi ai. Nhưng nếu hắn làm thầy thì sẽ hại đến muôn đời. Ngay cả ta cũng khó mà tránh khỏi liên luỵ…".

SƯU TẦM. 

Thơ : THẠCH THẢO - Dung Lê.

 


THẠCH THẢO

Tác giả: Dung Lê


Anh nợ em một nhành hoa thạch thảo

Tím thủy chung buồn đến sắt se lòng

Đêm cố quận hương rơi đầy vạt áo

Anh có còn yêu thạch thảo hay không?


Em đốt lửa đi tìm trong dĩ vãng

Những nhớ quên, những năm tháng êm đềm

Đời buồn lắm mà nỗi sầu chưa cạn

Mai xa rồi... nước mắt một lần thêm


Mang hồi ức phủ lên màu hoa tím

Nửa mười năm ôm giấc mộng tương phùng

Em phải khóc bao lần cho kỷ niệm?

Để chúng mình về đúng nghĩa người dưng...

           

Câu chuyện cũ chẳng còn ai nhớ nữa

Lần gặp nhau là lần cuối trong đời

Mùa thu chết mang theo lời hẹn hứa

Hoa không còn người cũng đã xa xôi


Nói em biết... nửa đời nhau chia cách

Anh có còn yêu thạch thảo ngày xưa?


#Dungle


Thơ : NHẮN GỞI BẠN GIÀ - Nhung Trần.

 



Nhắn gởi bạn già


Giờ đây bọn mình đã già

Thời gian lặng lẽ trôi qua 

Gặp nhau đôi khi xa lạ 

Tuổi xuân bỏ ta đi xa


Bên đồi nắng đã xế chiều 

Hàng hàng bia đá quạnh hiu

Được mất, bại thành tan biến

Mấy ai được nhớ ít nhiều?


Con đò sắp đến bến bờ 

Khách rời thuyền đứng chơ vơ

Bến xưa thuyền còn mong nhớ 

Biệt ly, trở lại bao giờ?


Giờ đây bóng hạc đến gần

Quanh mình còn ít bạn thân

Sống vui tháng ngày còn lại 

Đồng hồ cát sắp cạn dần…


Nhung Tran 

QLD 19/10/25