SAU NGÀY TÀN CUỘC.
Ngày 2/5/1975, UBND Cách mạng xã Phú Xuân gọi tất cả binh lính chế độ cũ mang theo “căn cước quân nhân”, “chứng chỉ tại ngũ”… đến xã trình diện. Mọi người điền vào tờ khai nộp và xếp hàng chờ đến lượt bà Sáu Nhung (chủ tịch xã, trên 30 tuổi, mặc bà ba đen, quấn khăn rằn, mang AK) phỏng vấn vừa đập bàn: “Anh bắn chết bao nhiêu cán bộ cách mạng?” – “Nói láo, đi lính 3 năm mà không bắn chết chiến sĩ giải phóng nào? Phải thành khẩn khai báo mới được hưởng khoan hồng của cách mạng”…
Là du kích Bến Tre, bà Sáu Nhung căm thù lính Sư đoàn 7 và lính Tiểu khu Kiến Hòa, bà hỏi “Mày ở Trung đoàn 10, mà ở tiểu đoàn 3/10 hay 4/10?” – “Mày ở Trung đoàn 11 có biết 2 thằng tiểu đoàn trưởng 2/11 và 3/11 ác ôn đang trốn ở đâu không?” – “Mày có tham gia trận càn ngày 22/6/1970 không?”. Đối với lính địa phương quân thì bà đọc tên những đồn trưởng khát máu, ác ôn. Bà “quay” lính Sư đoàn 7 và lính Tiểu khu “lên bờ xuống ruộng” cả 15 phút/người, cho đến khi mồ hôi trán đổ ướt mặt mới thôi.
Có lẽ, bà chưa đụng trận với Lực lượng trù bị rằn ri, như Thủy quân Lục chiến, Nhảy dù, nên bà không đưa họ vào “diện phỏng vấn đặc biệt”. Nhưng đến lượt tôi, tuy “chưa kịp gây nợ máu”, nhưng bà thắc mắc về cấp bậc của tôi ghi là “sinh viên sĩ quan”: “chỉ có chuẩn úy, thiếu úy, làm gì có cấp bậc SVSQ?” Tôi trình bà căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ, sự vụ lệnh cử tôi đi Mỹ, tất cả đều ghi “SVSQ M.B.K”. Bà hỏi “nếu tốt nghiệp anh mang lon gì?”, tôi nói “thiếu úy” - "vậy anh ghi “thiếu úy”. Tôi trình bày “Tôi về nước ngày 13/3/1975, tuy có bằng phi công, nhưng tôi phải học thêm khóa “Điều chỉnh sĩ quan”. Ngày 28/3/1975 lẽ ra tôi ra Nha trang học điều chỉnh, thì Đà nẵng thất thủ, nên ở lại Tân Sơn nhứt thuộc “Đơn vị thặng số”. Bà Sáu tịch thu giấy tờ của tôi rồi ký lên “Giấy đăng ký học tập cải tạo”.
Những ngày sau đó, cứ 5 giờ sáng, ông Hai Ngóc tổ trưởng đi khắp xóm gọi “ngụy quân, ngụy quyền” tập họp ở văn phòng ấp đi làm thủy lợi. Má tôi nấu cơm, tôi bỏ cơm và khô cá vào lon Guigoz để ăn trưa. Ông Hai Ngóc có con đi lính VNCH, thằng Giáp đi lính VNCH xung phong làm tổ phó cũng gọi tôi “lính ngụy”. Thằng Sủng chưa đi lính - con Sáu tiệm vàng chuyên buôn đô la đỏ, làm bí thư đoàn ấp canh me tôi sát nút, sau đó nó vượt biên sang Mỹ! Ông Bảy Sang, ông Năm Dần, ông Tư Kiệt, có đi Việt Minh rồi về thành, đến 30/4/1975 nhảy ra đeo băng đỏ làm trưởng ấp. Ông Ba Xuân thợ giặt ủi, xưng là người chỉ điểm pháo kích tổng kho xăng dầu Nhà Bè, làm phó công an xã, miệng hét ra lửa! Nhớ lại, muốn thành “sĩ quan đề lô” (Détachement liaison de Observation) của VNCH phải tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức, rồi đến Dục Mỹ học pháo binh 6 tháng, mới đi tiền tiêu điều chỉnh tác xạ. Ông Ba Xuân thợ giặt ủi làm đề lô, nên pháo bay khỏi Tổng kho xăng dầu hơn 1 cây số, rớt trúng nhà ông Tư Tẩu làm chết 4 người !
Ông Bảy Sang trưởng ấp 5, đạo Cao Đài, bận bà ba trắng mang K.54, ông Tư Kiệt người lùn mặc pijama đen, mang CKC dài chấm đất. Tôi không sợ người mặc quân phục mang súng, vì họ có quân kỷ, còn bà ba và pijama mang súng, không biết họ nổ lúc nào? Khi họ nhắm bắn ăn cướp thì chắc chắn trúng người la làng. Trước đó, ông Bảy Sang chạy xe lam, ông Tư Kiệt sửa xe đạp là người có tuổi, sống tử tế. Nhưng bất ngờ nhất là bác Năm Dần, bác quản lý đám “ngụy quyền” đắp thủy lợi, đứng trên bờ đê chửi những bạn lười, câu giờ: “Bọn mũi nhọn, lông tay bị đánh chạy về nước hết, tụi bây là tay sai, không còn bơ thừa sữa cặn mà liếm đâu, ở đó mà làm biếng nhớt thây, “ngụy quân” phải tự giác lao động, học tập cải tạo để được cách mạng khoan hồng!
Bên thắng cuộc liên tục chửi “ngụy quân, tay sai, liếm gót” trên loa, trên đài chưa hết nhục, đàng này bác là dân Phú Xuân mấy đời như ba tôi, sao bác chửi con cháu thậm từ như ở miền ngoài vậy? Hôm đó, bác 5 Dần phân công nhóm 10 “ngụy quân” tôi, một người dùng len xắn đất, chuyền tay lên đắp tại mặt bọng. Đất ruộng nơi có bọng thì trũng và nhão, nên cục đất khi tới bờ rã ra còn phân nửa, đến 11g trưa vẫn chưa đầy. Cứ mỗi lần bác đi kiểm tra ở các dây khác là có người trong dây của tôi trốn, đến 11g30 còn 3 người. Tôi xin bác cho ăn cơm trưa và cho thêm người để chiều đắp. Bác nói tụi bây không biết tự quản lý, để 7 thằng bỏ trốn, 3 thằng còn lại phải đắp cho đầy, chiều mà không đầy, 3 thằng nằm xuống để tao đắp đất, lấy thân tụi bây độn như cây ráng.
Tôi nói “Bác không có quyền coi tui tôi như thú, tôi về đây, bác muốn làm gì thì làm”. Ngày hôm sau, ông Hai Ngọc phó ban an ninh ấp gọi tôi lên xử lý. Tại văn phòng ấp, không thấy 5 Dần, tôi xin ông Hai Ngọc mời 5 Dần và 2 người còn lại để đối chứng. Ông Hai Ngọc nói “Không cần, chú bị Mỹ nhồi sọ, bây giờ muốn chống chánh quyền cách mạng hả?”. Tôi nói, tôi không hề có hành động hay lời nói xúc phạm tới chính quyền cách mạng, rồi tôi kể hết đầu đuôi câu chuyện, ông Hai Ngọc có vẻ hiểu, bắt tôi viết kiểm điểm, rồi cho về. Ba tháng sau ngày 30/4, hệ thống thủy lợi ấp 5 và ấp 6 được đắp bằng đất chèn lá dừa nước đã sạt lở. Chúng tôi gia cố cừ tràm, đắp thêm. Nhưng sau vụ lúa mùa (6 tháng), hệ thống thủy hại không giữ được nước cấy vụ đông xuân. Từ đó, xã Phú xuân trở về một vụ như thời chưa được giải phóng.
TÔI SUÝT BỊ XỬ TỬ:
Rạng sáng 17/6/1975, một giọng Bắc gọi “mở cửa” kèm theo tiếng báng súng dộng vào cửa trước. Tôi và ba tôi ngủ trên bộ ván nhà trên, bật dậy mở cửa, bật đèn. Một anh bộ đội bước vào chĩa súng vào bụng tôi, kéo cơ bẩm lên đạn và bảo “đứng im”. Thiếu úy Nguyễn Văn Thiệu - đại đội trưởng thuộc E.88 (quân quản ấp 4, 5, 6) buớc vào nhà cùng 3 bộ đội khác, nói “Hôm qua là ngày cuối cùng cho sĩ quan ngụy cấp úy trình diện đi cải tạo, chúng tôi đến đây để cưỡng chế đối tượng MBK đi học tập”. Sợ quá - hóa liều, tôi đưa hai tay lên trời, ưỡn bụng ra và nói “Nếu các anh có bằng chứng tôi là thiếu úy, các anh cứ bắn tôi. Các anh qua bà Sáu Nhung xem các giấy tờ tôi nộp có ghi cấp bậc thiếu úy không? Giấy tờ đó đều ghi tôi là SVSQ. Ở Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức, SVSQ tốt nghiệp mang lon chuẩn úy, mà chuẩn úy không đi học tập trung, tôi còn thấp hơn chuẩn úy nên không đi tập trung là đúng”
Thiếu úy Thiệu nói “Nhân dân tố cáo anh là thiếu úy, học bên Mỹ về”. Tôi nói, các anh và bà Sáu Nhung là cán bộ cách mạng, ở cách nhau chưa đầy một cây số sao không gặp để xem giấy tờ của tôi nộp, hoặc mấy anh liên lạc với đơn vị quân quản căn cứ Tân Sơn Nhất xem tàng thư tôi có phải thiếu úy không? Thiếu úy Thiệu nói “nhân dân tố không bao giờ sai”! Tôi bỗng nhớ còn giữ thẻ lãnh lương. Thẻ màu vàng có hình tôi, có chữ ký tôi lãnh lương tháng 3 và tháng 4 là 17.800 đồng/tháng. Tôi nhờ ba tôi lấy bóp của tôi móc ra thẻ lương, tôi cắt nghĩa “17.800 đồng là lương trung sĩ, chứ không phải lương thiếu úy”! Ba má tôi hiểu thế nào là chứng cứ, cùng lên tiếng kêu oan cho tôi. Ba tôi nói “nếu nó là thiếu úy ông bắn luôn tôi đi”. Thấy không ổn, thiếu úy Thiệu ra hiệu, anh bộ đội rút mũi súng ra khỏi bụng tôi, lui về cạnh cửa. Chị Hai và ba em gái tôi khóc, thiếu úy Thiệu nói “Tôi đưa anh K về văn phòng đại đội để điều tra, không ai được đi theo, nếu anh K không phải sĩ quan, tôi sẽ trả về chính quyền địa phương quản lý”.
Văn phòng đại đội là nhà mượn của ông Sáu Tiệm, cách nhà tôi 400 mét, lúc đó trời sáng, hàng xóm tò mò xem tôi bị bắt. Tại nhà chú Sáu Tiệm, tôi yêu cầu thiếu úy Thiệu liên lạc với bà Sáu Nhung, nhưng anh ta lờ đi và nói “Anh học ở Mỹ, chúng nó nhồi sọ anh chủ nghĩa đế quốc, để chống phá chủ nghĩa Mác Lê, anh nên tình nguyện đi cải tạo để trở thành công dân tốt”. Biết đây là bước nhượng bộ, tôi nói “Tôi là con trai một với 4 chị em gái, nên không di tản dù đang ở sân bay Tân Sơn Nhất, tôi không phải diện đi cải tạo tập trung, các anh hãy để tôi về để lo cho cha mẹ. Thiếu úy Thiệu đưa tôi 2 tờ giấy ca rô và bắt tôi viết tường trình. Khoảng 9 giờ, thiếu úy Thiệu cho tôi đi bộ về nhà. Từ đó, chòm xóm không ai nói chuyện với tôi, buồn nhất người anh chú bác ruột cũng lánh mặt tôi 3 tháng.
Nhà tôi có cửa ngõ và rào ba mặt, mặt sau giáp con rạch không có rào. Khi bộ đội chĩa súng vô bụng tôi ở nhà trên, em gái út 15 tuổi sợ quá, mở cửa trốn ra sau, bỗng thấy 2 bộ đội cầm súng, nghĩa là họ lội từ rạch lên, bao vây chu đáo! Từ đó, mỗi đêm nghe chó sủa là tim tôi muốn rớt ra ngoài. Sau khi hết đi thủy lợi, tôi xin làm thư ký cho “Công đoàn xe lam” (Sau là HTX xe lam), tôi đánh máy giỏi, viết báo cáo hay (cho phòng giao thông) nên bác Nhu chủ tịch Công đoàn quý tôi. Làm được 4 tháng, ông Hai Ngọc phó ban an ninh Ấp thấy tôi ngồi đánh máy, bèn gọi bác Nhu ra nói “Thằng này học Mỹ về, anh cho nó làm, nó coi hết tài liệu của ta”. Thế là mất việc, tôi đành xin làm “công nhật” ở NM luyện cán thép Việt Thành, dùng búa tạ đập sắt gù mới ra lò. Một tổ 4 thằng, đập 4 vỉ (40 phôi sắt) ăn 44 xu. Mỗi tổ phải đập 16 vỉ, để mỗi thằng lãnh 44 xu/ngày. Một bạn trong tổ tôi bị phôi sắt đè gãy chân, tôi không bị thương nhưng chân tay bị phỏng, sau một năm rưỡi đập sắt gù, tôi làm cháy hai đôi giày bottes de saut (của trường Bộ binh TĐ và trường bay Sheppard), bù lại tôi biết đứng trên giàn cao 3 mét, quay búa 7 kg cả chục vòng không mỏi.
TÔI ĐƯA EM SANG SÔNG.
Tôi cù lần, nhát gái, 21 tuổi vào trường Bộ binh Thủ đức chưa có mảnh tình lận lưng. Mỗi chủ nhật, ra vườn tao ngộ thấy bạn gái đi thăm bạn đồng khóa mà mơ. Tháng 12/1972, sang Không quân, tôi quen được một hoa khôi trường Trung học Cần Giuộc, nhờ người quen hai bên làm mai. Da nàng trắng, mũi cao, môi son, tóc dài, chữ viết bay bướm với nét đá, nét bụng. Tháng 6/1973 tôi học Anh ngữ tại Gò vấp, nàng học Trường QG Sư phạm Sài gòn thỉnh thoảng nghỉ trưa tôi xách xe máy ra trường nàng ngồi ghế đá tâm sự, khiến nhiều bạn (nam lẫn nữ) ghen tỵ. Chúng tôi có đến nhà nhau ra mắt ba má. Nàng đi coi bói kể lại tôi “Anh Tân Mẹo, cầm tinh con mèo, xuất tướng tinh con rái cá, cân nặng “1 cây hai”, mạng tòng bá mộc. Em Nhâm Thìn, cầm tinh con rồng…mạng trường lưu thủy. Thầy nói, nước sông dài nuôi cây cao, bóng cả là rất hạp nhau”. Tháng 10/1973, tôi thi đủ điểm đi Mỹ, nàng may 2 áo dài tím, hứa sẽ mặc đi dạy sau khi tốt nghiệp tháng 6/1974.
Tôi ở Mỹ 16 tháng, thư từ VN qua Mỹ và ngược lại mất 2 tuần, tôi đã gửi 15 lá thư và nhận 15 lá. Mỗi lá tôi kèm 5-6 tấm hình màu, mỗi lá nàng kèm một chân dung trắng đen chụp ở ảnh viện, tấm nào cũng đẹp như nghệ sĩ. Năm 1974, nàng lên Lai Khê (gần căn cứ Sư đoàn 5 bộ binh) dạy tiểu học. Khi tôi về nước, nàng về 2 lần vào ngày chủ nhật trong tháng 3/1975 để gặp tôi ở nhà bạn học ở Q.8. Sau đó, tình hình chiến sự leo thang, quốc lộ 13 không an toàn, tôi không gặp nàng nữa. Sau 30/4, tôi bị quản chế tại chỗ, không thấy nàng về thăm. Khoảng tháng 9/75, nàng hẹn gặp tôi ở nhà bạn nói rằng, việc dạy học ở Lai Khê quá vất vả, thiếu điện, thiếu dầu, thiếu gạo nàng sống không nổi. Ty Giáo dục chỉ cho cô nào có chồng được về Sài gòn. Má nàng biết vậy ép nàng lấy anh B. kỹ sư công chánh, đang làm phó giám đốc một xí nghiệp (Má nàng và má KS. B là bạn thân).
Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói “Hiện tại của anh mất, tương lai anh không có, còn dĩ vãng của anh bị sỉ nhục, nguyền rủa mỗi ngày. Mạng anh là cây tòng bá giờ thành “tà bóng”, không thể che cho em! Anh chúc em hạnh phúc”! Một hồi sau, nàng nói “Em lấy chồng, rồi sẽ có ngày anh lấy vợ. Thư và hình ảnh tặng cho nhau có thể làm cho tụi mình mất hạnh phúc”. Tôi nói “Em đúng, anh sẽ trả cho em tất cả thơ, hình”. Nhớ ngày 27/1/1973, Mỹ và Bắc Việt trao trả tù binh cho nhau tại sông Bến Hải và Lộc Ninh. Hơn hai năm sau, tôi và nàng “trao trả thư từ” tại Q.8. Chủ nhật tuần sau đó, nàng đưa tôi xấp thư gói trong giấy báo. Tôi đưa lại nàng xấp thư, nàng giở ra kiểm tra từng tấm ảnh. Tôi không kiểm tra thư. Đám cưới nàng không mời tôi, như lời tôi dặn lúc chia tay. Nàng sinh đứa con trai đầu lòng năm 1976, nên được về Sài gòn vì lý do con mọn. Tôi đàn guitar hay, nhưng ca rất dở, vậy mà cứ khoái hát bài “Tôi đưa em sang sông” của Y Vũ – Nhật Ngân.
Năm 1979, Trung đoàn E.88 sang Campuchia đánh Ponpot, thiếu úy Thiệu hy sinh, tôi buồn và cầu cho anh siêu thoát. Nếu anh bộ đội chĩa súng vô bụng tôi đọc được bài này, xin vui lòng liên lạc, tôi sẽ đãi anh nhậu với rượu XO. Bởi vì, anh đã không lỡ tay cướp cò, hoặc là trong băng đạn không có đạn. Dù giả thiết nào tôi đều biết ơn!
KIEM MAI BA ( FB )