Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2025

Thơ : LỜI MẸ DẶN - Phùng Quán

  



LỜI MẸ DẶN 

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi

Mẹ tôi thương con không lấy chồng

Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải

Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.

Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ

Ngày ấy tôi mới lên năm

Có lần tôi nói dối mẹ

Hôm sau tưởng phải ăn đòn.

Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn

Ôm tôi hôn lên mái tóc

- Con ơi

trước khi nhắm mắt

Cha con dặn con suốt đời

Phải làm một người chân thật.

- Mẹ ơi, chân thật là gì?

Mẹ tôi hôn lên đôi mắt

Con ơi một người chân thật

Thấy vui muốn cười cứ cười

Thấy buồn muốn khóc là khóc.

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

Từ đấy người lớn hỏi tôi:

- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?

Nhớ lời mẹ tôi trả lời:

- Bé yêu những người chân thật.

Người lớn nhìn tôi không tin

Cho tôi là con vẹt nhỏ

Nhưng không! những lời dặn đó

In vào trí óc của tôi

Như trang giấy trắng tuyệt vời.

In lên vết son đỏ chói.

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi

Đứa bé mồ côi thành nhà văn

Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm

Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.

Người làm xiếc đi dây rất khó

Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn

Đi trọn đời trên con đường chân thật.

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

Tôi muốn làm nhà văn chân thật

chân thật trọn đời

Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã

Bút giấy tôi ai cướp giật đi

Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

(Nhà thơ Phùng Quán (1932-1995)

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2025

Suy ngẫm : CÓ HỌC VẪN HƠN - Tan Dinh st.

 



CÓ HỌC VẪN HƠN

+Trong vụ cướp ngân hàng một tên cướp hét lên: "Tất cả nằm xuống, nên nhớ Tiền thuộc về nhà nước, còn mạng sống thuộc về các người". Mọi người trong ngân hàng nghe xong liền im lặng nằm cả xuống sàn nhà..!!!

Điều này gọi là "Cách thức khai tâm - thay đổi những suy nghĩ trước nay vẫn theo lối mòn"....

Có cô nhân viên nằm trên bàn trong tư thế khêu gợi, một tên cướp hét lên: "Làm ơn cư xử văn minh, chúng tôi là cướp chứ không phải những kẻ hám gái!".

Điều này gọi là "Hành xử chuyên nghiệp - chỉ tập trung vào công việc chuyên môn mà bạn được huấn luyện và được giao !".

 Khi tên cướp quay lại, một tên cướp trẻ hơn (có bằng MBA) nói với tên cướp già hơn (kẻ mới tốt nghiệp phổ thông): " Đại ca, có phải đếm xem chúng ta cướp được bao nhiêu tiền không ?". Tên cướp già gằn giọng : "Mày ngu lắm, bao nhiêu tiền, đếm thế nào được ? Đợi đi, tối nay TV sẽ nói chúng ta cướp được bao nhiêu !".

Điều này được gọi là: "Kinh nghiệm - ngày nay thì kinh nghiệm quan trọng hơn bằng cấp sách vở" ..

+ Sau khi băng cướp rời khỏi, giám đốc chi nhánh định gọi báo cảnh sát. Kế toán trưởng vội vã chạy đến, thì thầm vào tai ngài. "Đợi đã, hay để số tiền chúng ta biển thủ vào trong số bị băng cướp lấy mất !".

Điều này được gọi là: "Bơi theo dòng nước - chuyển đổi những tình huống bất lợi thành thuận lợi"

+ Người giám đốc tự nhủ: " Vậy thật tuyệt nếu cứ mỗi tháng lại có một vụ cướp !".

 Điều này được gọi là :" Hãy loại bỏ những điều khó chịu - Hạnh phúc là điều quan trọng nhất "

+ Ngày hôm sau TV đưa tin 100tỷ đã bị cướp ở nhà băng. Những tên cướp đếm đi đếm lại thì chỉ có 20tỷ 

>>Chúng rất giận dữ. "Chúng ta đã mạo hiểm mạng sống của mình chỉ để lấy 20tỷ, bọn Nó chỉ ngồi chơi mà cướp được 80tỷ.

Đúng là học hành, có bằng cấp thì chúng nó được ngồi cái ghế ấy, cướp tiền siêu đẳng hơn chúng ta!".

Điều này giải thích tại sao: Kiến thức giá trị như ...Vàng !

Tan Dinh Sưu Tầm 


Tố Ngọc Trần chia sẻ

Cuộc sống : THƯỢNG ĐẾ KHÔNG CHO... St trên mạng.

 



THƯỢNG ĐẾ KHÔNG CHO AI TẤT CẢ

Ở Mỹ có một cậu bé sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ đến khi đi học cậu chỉ mang mỗi một đôi giày rách. Cậu bé nghe nói vào lễ Giáng Sinh, khi đến bất cứ cửa hàng nào, chỉ cần nói với Thượng Đế thứ mình muốn thì chủ cửa hàng sẽ thỏa mãn yêu cầu của mình.

Vào hôm Giáng Sinh

Cậu bé nhìn thấy trong một cửa hàng giày có bày bán những đôi giày rất đẹp nên đã bước vào cửa hàng và nói với ông chủ rằng: “Hôm nay là Giáng Sinh, cháu rất thích đôi giày này, chú có thể giúp cháu nói với Thượng Đế để Ngài cho cháu đôi giày này có được không ạ?”

Ông chủ nhìn xuống chân của cậu bé và hiểu ngay vấn đề, ông ấy cầm lấy đôi giày rồi nói:

-  “Được thôi cháu bé, bây giờ ta sẽ nói với Thượng Đế”. 

Sau đó ông ấy cầm đôi giày và đi vào bên trong.

Một lúc sau, ông chủ đi ra, nhưng trên tay chỉ cầm có mỗi một chiếc giày rồi đưa cho cậu bé và nói: “Cháu bé, Thượng Đế nói rằng Ngài chỉ cho cháu một chiếc giày thôi, cháu phải tự nghĩ cách kiếm tiền để mua chiếc còn lại.”

- Cậu bé hỏi:  “Vậy cháu phải kiếm bao nhiêu tiền thì mới mua được chiếc giày còn lại?”

- Ông chủ nói:  “2 đô la.”

- Cậu bé lại nói:  “Được rồi ạ, cháu sẽ nghĩ cách kiếm tiền, nhưng chú nhất định phải giữ cho cháu chiếc giày còn lại nhé.”

- Ông chủ cười nói: “Cháu cứ yên tâm.”

- Sau khi về nhà và tiết kiệm được 2 đô la bằng cách nhặt ve chai, cậu bé vui vẻ chạy đến cửa hàng để trả tiền.

- Ông chủ đã khen ngợi cậu bé và đưa cho cậu chiếc giày còn lại. Kể từ đó, cậu bé đã có một đôi giày mới rất đẹp.

Khi lớn lên, cậu bé đã từng làm nhiều nghề như : nhân viên cứu hộ, bình luận viên, phát thanh viên rồi bước vào giới nghệ thuật và trở thành một ngôi sao nổi tiếng. 

Vào năm 1980, cậu bé ấy đã trở thành Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ, cũng chính là Tổng thống Ronald Reagan.

Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, có một lần ông Ronald Reagan được phóng viên hỏi về việc có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự trưởng thành của ông là gì, ông đã kể về câu chuyện “Thượng Đế chỉ cho 1 chiếc giày” khi ông còn nhỏ.

Ông Reagan cho biết: “Sau này tôi mới biết được giá gốc của đôi giày đó là 38 đô la, một nửa giá cũng đến 19 đô la nhưng ông chủ cửa hàng chỉ lấy của tôi 2 đô la để dạy cho tôi một điều rằng:

"Thượng Đế sẽ không cho bạn tất cả những gì bạn muốn, Ngài chỉ cho bạn một phần mà thôi, bạn phải tự mình nỗ lực để lấy phần còn lại.”

Nguồn và ảnh fb: Hoa Hạ 

ST.

Tản mạn : MỘT CHIỀU SÀI GÒN - LTV sưu tầm.

 


MỘT CHIỀU SÀI GÒN. 

Chiều Sài Gòn vẫn như bao chiều khác — gió lững thững qua hiên, nắng lửng lơ trên vai người. Tôi ngồi trong quán cà phê nhỏ, nghe ông anh kể chuyện đời, chuyện người, rồi anh bất chợt chìa ra bức ảnh một chiếc đồng hồ cổ.

“ Em coi nè, trên mặt đồng hồ này có khắc tên Saigon.”

Chỉ một câu nói thôi, mà lòng tôi khẽ chao như vừa nghe lại tiếng chuông nhà thờ xa xăm trong ký ức. Giữa bao cái tên lộng lẫy của thế giới — Paris, Tokyo, Geneva, New York — cái tên Saigon đứng đó, nhỏ bé mà kiêu hãnh, dịu dàng mà bền bỉ. Một cái tên không chỉ để gọi, mà để nhớ.

Người ta nói chiếc đồng hồ ấy được chế tác từ những năm 1950, khi thế giới vẫn còn chậm rãi và người thợ còn thổi cả linh hồn mình vào từng chi tiết nhỏ. Trên mặt đồng hồ, mỗi thành phố là một múi giờ, một nhịp đập, một hơi thở. Và Saigon — giữa vòng quay của thời gian — vẫn lặng lẽ, như thể chưa bao giờ rời khỏi trái tim của ai đó.

Tôi bỗng nhớ những buổi sớm có sương mỏng trên mái tôn cũ, nhớ mùi cà phê phảng phất trong ngõ nhỏ, nhớ tiếng rao đêm lạc giữa dòng xe muộn. Saigon của tôi – nơi ai đi xa rồi cũng muốn tìm về, dù chỉ để ngồi một góc, nghe lại hơi thở ấm của thành phố từng ôm cả tuổi trẻ trong vòng tay.

Có những điều không cần phải nói lớn, không cần phô trương. Như Saigon – chỉ cần một dòng chữ khắc trên mặt đồng hồ thôi, cũng đủ làm lòng người mềm lại. Thời gian có thể cuốn đi bao kỷ niệm, nhưng cái tên ấy – hai chữ Sài Gòn – vẫn ở lại, như vết son trên lòng một kẻ đã đi qua thương nhớ.

Tôi khẽ mỉm cười, nhìn bức ảnh lần nữa. Thời gian vẫn quay, người vẫn lớn, thành phố vẫn đổi thay. Nhưng giữa muôn vàn biến động, có những điều vẫn không thay – đó là niềm thương, là tự hào, là chút lặng lẽ run rẩy trong tim mỗi khi ai đó nhắc đến hai chữ thân quen:

Sài Gòn.


( LVT sưu tầm và biên tập lại)

Cuộc sống : GIỮ LẠI PHẨM GIÁ... - Sưu tầm trên FB.

 



GIỮ LẠI PHẨM GIÁ CHO NGƯỜI KHÁC BẰNG CÁCH NÀO?


Tôi nói dối ông chủ tôi mỗi ngày.

Tôi năm nay 72 tuổi. Tôi là một chức sắc trong nhà thờ, đóng thuế đàng hoàng, chưa bao giờ bị phạt nguội lần nào. Nhưng suốt chín năm nay, tôi đang thực hiện một kiểu "lừa đảo" ngay dưới mũi của ban quản lý tiệm đồ cũ "Cơ Hội Thứ Hai" này.

Nếu họ biết được, họ sẽ đuổi việc tôi ngay lập tức, chẳng kịp cho tôi cởi cái tạp dề ra. Nhưng tôi kệ. Bởi vì trong một xã hội cứ thích tước đoạt đi lòng tự trọng của người khác, tôi đã tìm ra cách để trả lại nó cho họ.

Công việc của tôi đơn giản lắm: Phân loại đồ quyên góp. Tôi dán nhãn giá cho quần jeans, mấy cái áo khoác mùa đông nặng trịch, mấy đôi giày bảo hộ còn dùng tốt. 

Hầu hết khách hàng chẳng thèm nhìn tôi. Đối với họ, tôi chỉ là một phần của cảnh vật: Một ông già lụ khụ, mắt đeo kính, tay bị đau khớp, cứ cắm cúi định giá mấy món đồ có mùi băng phiến và mùi ký ức của người lạ.

Nhưng cái việc vô hình này lại có cái lợi của nó. Nó cho phép tôi nhìn thấy hết mọi thứ.

Tôi thấy mấy bà mẹ đơn thân cứ so đi so lại giá đôi giày đi học của con với tiền mua thức ăn. Tôi thấy mấy chú cựu chiến binh cứ nhìn chằm chằm vào bộ vest họ cần để đi phỏng vấn, nhìn vào cái ví tiền rồi lặng lẽ quay lưng đi.

Và tôi nhớ nhất là thằng bé đó.

Lúc đó là giữa tháng Mười Một, ở cái thị trấn rỉ sét, lạnh lẽo của chúng tôi. Gió lùa qua phố sắc như dao cắt. Thằng bé bước vào với cái áo nỉ mỏng dính, đến nỗi nhìn rõ cái áo thun bên trong. Nó chắc chưa tới mười bốn tuổi. Gầy gò, run cầm cập, với cái nhìn vô hồn mà những đứa trẻ hay mang khi chúng bị xã hội bỏ rơi quá nhiều lần.

Nó đi thẳng đến khu áo khoác. Nó tìm thấy một chiếc áo parka xanh hải quân, rất ấm, hàng hiệu, gần như mới. Giá là 25 đô la. Nghe thì bèo, nhưng đối với nó là cả một gia tài.

Tôi lén nhìn. Nó chạm vào ống tay áo, như muốn cảm nhận hơi ấm mà chiếc áo hứa hẹn. Nó nhìn cái nhãn giá. Vai nó xụ xuống khoảng chục phân. Nó không rên rỉ, không than thở. Nó chỉ cẩn thận treo chiếc áo lên lại và đi thẳng ra cửa.

Tim tôi đập thình thịch. Tôi không thể đơn giản là cho không nó. Tôi học được rằng, việc bố thí có thể mang lại vị đắng cho những người đang cố gắng sống sót. Nếu bạn đưa tiền bố thí, họ cảm thấy mình nhỏ bé. Họ cảm thấy mình như một trường hợp cần giúp đỡ xã hội.

Thế là tôi cầm chiếc áo, đi ra quầy tính tiền để chặn nó lại.

- "Ê, nhóc," tôi gọi.

Nó đứng khựng lại, sẵn sàng chạy trốn. 

- "Con không có ăn cắp gì hết!"

- "Tao biết," tôi càu nhàu, đóng vai ông già khó tính. - "Nhưng tao đang có rắc rối. Cái áo này hả? Nó bị lỗi. Cái khóa kéo dưới cùng nó bị kẹt. Mà theo quy định của cửa hàng, đồ bị lỗi thì không thể bán quá ba đô la. Mày có ba đô la không?"

Nó nhìn tôi, bối rối. 

- "Nhãn ghi hai mươi lăm mà."

- "Nhãn ghi sai đấy," tôi nói dối, giật phắt cái nhãn đi. 

- "Tao là người quản lý kho. Tao nói nó ba đô la. Mày lấy không hay để tao quăng nó đi?"

Nó do dự, dò xét gương mặt tôi xem có bẫy gì không. Rồi nó lục túi, lôi ra ba tờ tiền nhăn nhúm.

- "Dạ, có," nó thì thầm. "Con lấy."

Nó mặc chiếc áo vào ngay lập tức. Kéo khóa lên tận cổ — khóa vẫn hoạt động trơn tru, dĩ nhiên rồi — và nó thẳng lưng lên. Nó không còn trông như một thằng bé co ro vì lạnh nữa. Nó trông như một thanh niên vừa mới làm một phi vụ hời. Nó trông có vẻ được che chở.

- "Cảm ơn ông," nó nói.

- "Quy định cửa hàng thôi," tôi lầm bầm, quay lưng đi để nó không thấy mắt tôi hơi ướt.

Mọi chuyện bắt đầu từ đó.

Nhiều năm qua, cái "quy định cửa hàng" đó đã trở thành vũ khí bí mật của tôi.

Khi bà Miller, một góa phụ sống bằng đồng lương hưu ít ỏi, cần một cái máy nướng bánh mì mới nhưng chỉ có 5 đô la trong túi, thì cái máy 20 đô la bỗng nhiên bị dán nhãn là "Dây điện bị hở".

Khi một ông bố trẻ cần đôi giày bảo hộ để bắt đầu công việc xây dựng đầu tiên, tôi tự động "Giảm giá đặc biệt sáng thứ Ba".

Tôi tự nhớ trong đầu. Tôi tự bỏ tiền túi bù vào nếu tiền mặt bị hụt, hoặc tôi khai báo những món đồ đó là "Không bán được/đã tiêu hủy" trong hệ thống. Tôi sợ bị bắt lắm chứ.

Thế rồi một buổi chiều, một người phụ nữ đeo khăn choàng cashmere đã bắt quả tang tôi. Cô ta thấy tôi bán một chiếc xe đẩy em bé gần như mới cho một cô gái trẻ đang sợ hãi với giá 10 đô la.

Khi cô gái đi khỏi, người phụ nữ đó bước đến. Tôi chuẩn bị tinh thần bị mắng té tát hoặc bị dọa gọi quản lý.

Thế nhưng, cô ta lại đặt một tờ 100 đô la gấp gọn lên quầy.

- "Cho mấy cái... sai sót kiểm kê của ông," cô ta nháy mắt.

Và chuyện này bắt đầu lan ra. Một cách kín đáo. Những khách quen bắt đầu hiểu. Họ không bao giờ nói một lời. Họ mua một món đồ lặt vặt giá 5 đô la, đưa tôi tờ hai mươi, rồi nói: "Giữ lại tiền thối cho lần sau... hệ thống gặp trục trặc nhé."

Chúng tôi đã xây dựng nên một nền kinh tế bí mật chỉ dựa trên phẩm giá. Chúng tôi không bố thí; chúng tôi đang cân bằng lại cơ hội.

Thứ Ba tuần trước, tiếng chuông trên cửa kêu leng keng.

Một người đàn ông bước vào. Cao lớn, vai rộng, mặc bộ đồng phục nhân viên cấp cứu chỉnh tề. Anh ta đi đứng tự tin, nhưng không phải để mua sắm.

Anh đi thẳng đến quầy của tôi.

- "Ông là Arthur," anh ta khẳng định.

Tôi chỉnh lại kính. 

- "Đúng là tôi."

Anh ta cười, và đột nhiên, tôi thấy lại hình ảnh cậu bé mười bốn tuổi gầy gò trong chiếc áo nỉ xám mỏng manh ngày nào.

- "Ông bán cho tôi cái áo parka xanh hải quân cách đây mười năm," anh ta nói. - "Ông bảo cái khóa kéo nó bị hỏng."

Tôi cảm thấy má mình nóng ran. 

- "Tôi xử lý nhiều áo khoác lắm, cậu bé."

- "Khóa kéo không hề hỏng đâu, Arthur." 

Anh ta cúi xuống, giọng nghẹn lại vì xúc động. 

- "Tôi biết ông nói dối. Ngay cả lúc đó tôi cũng biết. Nhưng ông đã không bắt tôi phải đi xin xỏ. Ông để tôi được mua nó. Ông để tôi là một khách hàng, chứ không phải một kẻ ăn xin. Tôi bước ra khỏi đây với cảm giác như một người đàn ông."

Anh ta rút ra một phong bì từ túi áo.

- "Giờ tôi là nhân viên cấp cứu. Tôi cứu người. Nhưng tôi không nghĩ tôi đã sống sót qua mùa Đông năm đó nếu không có chiếc áo khoác đó. Hoặc nếu không biết rằng có người thực sự quan tâm đến mình."

Anh ta đặt phong bì lên quầy.

- "Trong đây có 500 đô la," anh ta nói. "Ông dùng nó đi. Tôi biết cái 'quy định cửa hàng' của ông tốn kém lắm."

Tôi run rẩy cố gắng trả lại. 

- "Tôi không thể..."

- "Cái này không phải cho ông," anh ta nói dứt khoát. "Nó dành cho đứa trẻ run rẩy tiếp theo bước vào đây. Hãy đảm bảo rằng khóa kéo của nó cũng bị hỏng, nhé."

Rồi anh ta quay lưng bước đi, đầu ngẩng cao, hòa vào ánh nắng mùa Thu.

Tôi đã 72 tuổi. Lưng tôi đau, chân tôi sưng vù sau một ngày dài. Nhưng tôi có công việc tuyệt vời nhất trên đời.

Chúng ta đang sống trong một đất nước nói rằng giá trị của bạn phụ thuộc vào số tiền trong tài khoản. Người ta bảo nhau phải tự lực cánh sinh, ngay cả khi họ không có gì.

Nhưng tôi đã học được một điều trong cái cửa hàng bụi bặm cũ kỹ này: Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Đôi khi, giúp đỡ một người không chỉ là cho họ thứ họ cần. Mà là cách bạn trao nó cho họ.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ — nếu bạn có thể giúp họ mà không làm họ cảm thấy nhỏ bé — bạn không chỉ nuôi dưỡng thân thể họ, bạn còn đang cứu rỗi cả tâm hồn họ nữa.

Vì vậy, tôi sẽ tiếp tục nói dối. Tôi sẽ tiếp tục lách luật. Tôi sẽ tiếp tục bịa ra những quy định không hề tồn tại.

Bởi vì cái mác giá chẳng có ý nghĩa gì. Điều quan trọng là người mặc nó.

TG Văn Chương

Cuộc sống : THẾ CHẤP - St trên FB.




THẾ CHẤP. 

 Một ông cụ người Mỹ bản địa bước vào ngân hàng một buổi sáng và xin vay 500 đô.

Nhân viên ngân hàng bắt đầu điền giấy tờ.

— “Ông định dùng số tiền vào việc gì?”

— “Tôi lên thành phố bán đồ trang sức do tôi tự làm,” ông cụ đáp.

— “Vậy ông có gì để thế chấp?”

— “Tôi không hiểu ‘thế chấp’ là gì,” ông nói thật thà.

Người ngân hàng kiên nhẫn giải thích:

— “Thế chấp là một thứ có giá trị — thứ chúng tôi giữ lại nếu ông không trả được nợ. Ông có xe hơi không?”

— “Có, một chiếc xe tải đời 1949.”

— “Thế thì không ổn rồi… Có gia súc gì không?”

— “Tôi có một con ngựa.”

— “Bao nhiêu tuổi?”

— “Không rõ. Nó rụng hết răng rồi — giờ khó mà biết.”

Cuối cùng, nhân viên ngân hàng thở dài và vẫn duyệt khoản vay 500 đô.

Vài tuần sau, ông cụ quay lại.

Ông đặt một xấp tiền dày lên quầy, trả hết nợ rồi bỏ phần còn lại vào túi.

— “Còn số tiền dư ông định làm gì?” — người ngân hàng hỏi.

— “Tôi sẽ để trong wigwam (lều) của tôi,” ông nói.

— “Ông có thể gửi ở đây,” người ngân hàng gợi ý.

— “Gửi là sao?”

— “Ông đưa tiền cho ngân hàng; chúng tôi giữ giúp. Khi cần, ông rút ra.”

Ông cụ ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi:

— “Thế ngân hàng sẽ đưa cho tôi cái gì để… thế chấp?” 😉


St

Thơ : TẠI ANH RÓT MẬT... - Trần Tuyết Tuyết.


 


TẠI ANH RÓT MẬT VÀO THƠ

(Có những người đi qua đời ta, để lại một vệt nắng không tắt – và một con tim mãi khát những mùa nhớ thương...)


Tại anh rót mật vào thơ

Để em say khướt trong mơ cũng cười

Thu đi để nắng chơi vơi

Anh đi để cả một trời vấn vương...


Tàn hương còn đọng trong sương

Bước qua kỷ niệm... đoạn trường lặng ru

Lời xưa gió cuốn mịt mù

Con tim vẫn khát... những mùa nhớ thương.

TRẦN TUYẾT TUYẾT. 

 



                 TRÊN XE LỬA 🚂

        Tác Giả: Guy de Maupassant

         Nguyễn Vạn Lý phỏng dịch


Xe lửa vừa rời Genoa trên đường đi Marseilles, chạy theo một con đường dài dọc bờ biển, lướt đi giữa biển và núi như một con rắn bằng sắt, bò bên trên những bãi cát vàng viền những đợt sóng bạc đầu, và bất thình lình lao xuống những đường hầm đen ngòm giống như một con thú chui vào hang.

Trong toa xe lửa cuối cùng, một người đàn bà mập mạp và một thanh niên ngồi đối diện nhau, không nói một lời, nhưng thỉnh thoảng liếc nhìn nhau. Nàng vào khoảng hai mươi lăm tuổi và ngồi cạnh cửa, nhìn ra cảnh vật bên ngoài. Đây là một người đàn bà nhà quê chắc nịch của vùng Piedmont, mắt đen, ngực to và hai má căng tròn. Nàng đẩy vài cái bao vào dưới ghế ngồi bằng gỗ, và ôm một cái rổ trên đầu gối.

Người thanh niên khoảng hai mươi tuổi. Chàng gầy gò và da rám nắng, với nước da ngăm đen vì làm việc ngoài đồng dưới ánh mặt trời thiêu đốt. Bên cạnh chàng, buộc trong một tấm khăn là tất cả tài sản của chàng: một đôi giầy, một áo sơ mi, một chiếc quần đùi và một áo jacket. Bên dưới chỗ ngồi, chàng giấu một cái cuốc và một cái xẻng cùng với một đoạn giây thừng. Chàng đang đi Pháp tìm việc làm.

Mặt trời lên cao tuôn lửa xuống bờ biển. Lúc ấy là vào cuối tháng Năm, và mùi hương thơm ngát phảng phất vào toa xe lửa qua những cửa sổ mở. Những vườn chanh và cam đang nở hoa, bốc lên bầu trời bình yên mùi hương ngọt ngào, nồng nàn và khó chịu, hoà lẫn với những bông hồng mọc chen chúc dọc đường rầy, trong vườn của những nhà giầu có, tại cửa những mái tranh xiêu vẹo, và cũng cả ngoài đồng nữa.

Có quá nhiều hoa hồng dọc bờ biển này! Hoa tràn ngập cả vùng với hương thơm nhẹ nhàng nhưng nồng nàn, và thay đổi không khí thành một mùi hương thơm dịu, một cái gì ngon hơn rượu vang và cũng không kém say sưa.

Xe lửa chạy chậm chạp, như thể muốn nán lại cái khu vườn lộng lẫy này. Nó cứ tiếp tục ngừng lại tại những nhà ga nhỏ, trước một vài căn nhà trắng, rồi lại tiếp tục chạy theo một tốc độ nhàn nhã, sau khi buông ra một hồi còi dài. Không có khách lên xe. Như thể là cả thế giới đang ngái ngủ, bất đắc dĩ phải đi bất cứ đâu vào cái buổi sáng mùa xuân nồng ấm ấy.

Thỉnh thoảng người đàn bà mập mạp nhắm mắt lại, và chỉ bất thình lình mở ra bất cứ lúc nào nàng cảm thấy cái rổ tuột khỏi đùi nàng. Nàng nắm cái rổ lại, nhìn ra ngoài cửa sổ vài phút, rồi lại ngủ gà ngủ gật. Những giọt mồ hôi đọng trên trán nàng, và nàng thở khó khăn, như thể đang bị một cơn co thắt đau đớn.

Người thanh niên gục đầu xuống ngực và ngủ say sưa như một người nhà quê.

Bỗng nhiên ngay lúc xe lửa rời một nhà ga nhỏ, người đàn bà nhà quê dường như thức giấc; nàng mở cái rổ và lấy ra một khoanh bánh mì, một vài trứng luộc, một chai rượu vang và một vài trái mận chín đỏ. Rồi nàng bắt đầu ăn.

Người đàn ông cũng bị đánh thức dậy bất thình lình và nhìn nàng ăn, theo dõi những miếng đồ ăn di chuyển từ đầu gối lên môi nàng. Chàng ngồi đó, má hõm xuống, hai tay khoanh lại, mặt trịnh trọng, đôi môi mím chặt.

Người đàn bà ăn như một người háu ăn, thỉnh thoảng làm một nốc rượu để nuốt trôi món trứng, và thỉnh thoảng ngừng lại để thở.

Nàng ăn hết mọi thứ, bánh mì, trứng, mận và rượu vang. Ngay khi người đàn bà ăn xong, người đàn ông lại nhắm mắt lại. Rồi cảm thấy khó chịu, người đàn bà nới lỏng chiếc áo của nàng, và người đàn ông bỗng nhìn lại nàng.

Nàng không để ý và cứ cởi khuy áo ra. Đôi vú quá to của nàng làm căng vải đến nỗi khi khe áo hở rộng ra, nó phô bày một chút vải trắng và da thịt giữa hai vú nàng.

Khi cảm thấy dễ chịu hơn nữa, người đàn bà nhà quê nói bằng tiếng Ý, “Trời nóng đến không thể thở được.”

Chàng thanh niên trả lời bằng cùng một ngôn ngữ và cách phát âm, “Thời tiết này rất tốt để đi đó đây.”

Nàng hỏi, “Ông cũng từ Piedmont?”

“Tôi quê Asti.”

“Còn tôi quê Casale.”

Họ là người cùng một vùng. Họ bắt đầu nói chuyện.

Họ trao đổi những nhận xét dài và thông thường, mà người lao động thường nhắc đi nhắc lại, và cũng đủ cho trí óc chậm chạp và giới hạn của họ. Họ nói về quê nhà và nhận thấy họ cùng quen một số người. Họ gọi tên và trở nên thân mật hơn mỗi khi họ khám phá ra một người mà cả hai cùng biết. Những lời nói mau lẹ với âm vang ở cuối câu và âm điệu của tiếng Ý tuôn ra từ môi họ.

Rồi họ nói về chính họ. Nàng có chồng và đã có ba con nàng gửi lại cho em gái nuôi, vì nàng vừa tìm được việc làm vú em cho một bà người Pháp tại Marseilles.

Về phần chàng, chàng cũng đi tìm việc. Chàng nghe nói có thể kiếm được việc làm cũng tại Marseilles, vì người ta đang xây cất nhiều tại đó.

Rồi họ lại im lặng.

Hơi nóng thực là khủng khiếp đè xuống mái xe lửa. Một đám mây bụi bốc lên đằng sau xe lửa, và bay vào qua cửa sổ; mùi hương của hoa hồng hoa cam trở nên nồng nàn hơn, nặng nề và thấm nhập hơn.

Hai du khách cùng ngủ trở lại.

Họ cùng mở mắt ra, hầu như cùng một lúc. Mặt trời đang lặn xuống biển, hắt ánh sáng lên làn nước xanh. Trời mát mẻ hơn và không khí nhẹ nhàng hơn.

Người vú em đang thở hổn hển. Chiếc áo của nàng mở banh ra, đôi má nàng trông mềm nhão, và đôi mắt khờ dại.

Nàng buồn phiền nói, “Tôi không cho con bú từ hôm qua. Bây giờ tôi cảm thấy như muốn xỉu.”

Chàng không trả lời, không biết nói gì. Nàng nói tiếp, “Khi một người đàn bà có nhiều sữa như tôi thì phải cho bú một ngày ba lần nếu không thi khó chịu lắm. Nó giống như một sức nặng đè lên tim tôi, đúng như vậy; một sức nặng chặn hơi thở của tôi và làm tôi cảm thấy nặng nề. Thực là kinh khủng khi có nhiều sữa như thế.”

Chàng trả lời, “Phải. Bà chắc khó chịu lắm.”

Nàng quả thực trông muốn bệnh, như thể nàng muốn xỉu đi.

Nàng thì thầm, “Tôi chỉ có thể vắt sữa ra, và sữa chảy như một vòi nước. Trông kỳ cục lắm. Chắc ông không thể tin được; ở Casale cả lối xóm thường đến xem tôi vắt sữa.”

Chàng nói, “Thế hả?”

“Phải, thực đấy. Tôi sẵn sàng để ông xem, nhưng cũng không giúp ích gì cho tôi được. Vắt như thế không có nhiều sữa ra.”

Và nàng lại im lặng.

Xe lửa ngừng lại. Đứng tại cổng xe lửa là một người đàn bà bồng một đứa bé khóc lóc trong cánh tay. Người đàn bà gầy gò và ăn mặc rách rưới.

“Kìa có một người đàn bà mà tôi có thể giúp được. Và đứa nhỏ cũng có thể giúp tôi nữa. Coi đây, tôi không giầu có, tôi phải bỏ nhà và gia đình và đứa con nhỏ yêu quý của tôi để đi làm; nhưng tôi sẵn sàng trả năm quan cho cái bà kia trong mười phút để tôi có thể cho đứa nhỏ bú. Như thế đứa trẻ sẽ nín khóc và cũng giúp tôi nữa. Tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn.”

Nàng lại im lặng. Rồi nàng vuốt bàn tay nóng của nàng vài lần lên cái trán đang đổ mồ hôi, và rên rỉ: “Tôi không thể chịu được nữa. Tôi cảm thấy tôi sắp chết đến nơi rồi.”

Và với một cử chỉ vô ý tứ, nàng cởi phanh áo ra.

Bầu vú bên phải nhô ra, đồ sộ và căng cứng, cùng với núm vú màu nâu; người đàn bà tội nghiệp rên rỉ: “Trời ơi! Trời ơi! Tôi làm gì bây giờ?”

Xe lửa lại tiếp tục cuộc hành trình giữa rừng hoa bốc lên mùi hương thấm nhập tỏa ra vào những buổi tối ấm áp. Thỉnh thoảng một chiếc thuyền câu hiện ra trong tầm mắt, trông như nằm ngủ giữa đại dương, với cánh buồm trắng phản chiếu xuống nước như thể có một chiếc thuyền khác lộn ngược lại.

Chàng thanh niên trông có vẻ rất bối rối, và lắp bắp, “Nhưng… thưa bà… tôi có thể… có thể giúp bà.”

Nàng trả lời bằng một giọng mệt mỏi, “Phải, nếu ông muốn. Nếu ông chịu làm thế là ông làm ơn cho tôi đấy. Tôi không thể chịu đựng được nữa, thực sự tôi không thể.”

Chàng quỳ gối xuống trước mặt nàng, và nàng cúi xuống, đưa cái đầu vú màu đậm vào miệng chàng như thể chàng là một đứa trẻ nhỏ. Trong cử động của nàng, hai tay nàng ôm bầu vú về phía người đàn ông, một vài giọt sữa ứa ra trên núm vú. Chàng hăm hở liếm những giọt sữa ấy, ngậm lấy bầu vú nàng giữa hai môi như thể là ngậm một trái cây, và bắt đầu nút đều đặn và tham lam.

Chàng hai tay ôm lấy ngang lưng người đàn bà để kéo nàng lại gần chàng hơn; chàng uống thong thả nhưng đều đặn, với cái cử động của cổ giống như một đứa trẻ.

Bỗng nàng nói, “Như thế đủ cho bên ấy rồi. Bây giờ bú bên này.”

Và chàng vâng lời quay sang vú bên kia.

Nàng đặt cả hai tay lên lưng chàng thanh niên, và bây giờ nàng thở thật sâu và sung sướng, hưởng cái hương thơm của hoa lẫn với từng ngọn gió lùa vào toa xe lửa, cùng với sự chuyển động của xe lửa.

Nàng nói, “Quanh đây thơm quá.”

Chàng không trả lời, vẫn tiếp tục bú cái vòi nước của bầu vú của nàng, mắt nhắm lại như để tận hưởng hơn nữa.

Nhưng lúc đó nàng khẽ đẩy chàng ra.

“Thế đủ rời. Bây giờ tôi cảm thấy dễ chịu lắm. Tôi là một người mới rồi.”

Chàng đứng dậy, lấy mu bàn tay lau miệng.

Bỏ vú vào trong áo, nàng nói, “Thưa ông, quả thực ông đã làm ơn cho tôi. Cám ơn ông nhiều lắm.”

Và chàng trả lời một cách biết ơn, “Thưa bà, chính tôi phải cám ơn bà mới phải. Đã hai ngày nay tôi chưa được ăn 

✒️ Guy de Maupassant


          📜 Nguyên bản tiếng Pháp :

                              IDYLLE

http://maupassant.free.fr/textes/idylle.html


Từ fb Tri Dung Le

Thơ: ĐẤT KHÁCH VÀO THU - Lê Nguyễn.

 



ĐẤT KHÁCH VÀO THU

(Cứ mỗi năm đến tháng 10, lại nhớ 

những mùa Thu đất khách nhiều kỷ niệm)


Đã hết mùa hoa, lá chớm vàng,

Đã nghe lành lạnh buổi Thu sang,

Gót chân phiêu lãng còn mê mải,

Tiếc những đời hoa sắp úa tàn.


Đời ta cũng tựa đời hoa ấy,

Cuối chặng đường Thu quạnh nẻo về.

Đã chẳng bận lòng bao thế sự, 

Sá gì bến giác với bờ mê.


Những đêm đất khách buồn khôn tả, 

Ngóng một vầng trăng ở cuối trời.

Lần giở bên đèn thiên cổ sử,

Ngậm ngùi trông lại những tàn phai!


Thế thôi, tiếc nhớ làm chi nữa,

Sương đã giăng giăng mấy nẻo đường. 

Mộng đã không thành trên đất khách,

Thôi đành thức trắng một đêm suông.


Mùa Thu Louisville – Mùa đại dịch 10.2020

Lê Nguyễn

Tản mạn : THỨ ÁNH SÁNG... - Lê Văn Thông.

 




THỨ ÁNH SÁNG KHÔNG BAO GIỜ TẮT. 

Giữa những xô bồ và tất bật của cuộc sống, tôi vẫn tin rằng có một thứ ánh sáng không bao giờ tắt – thứ ánh sáng trong trẻo, hiền hòa hơn cả ánh trăng rằm. Đó là ánh sáng của những người phụ nữ trong đời tôi – của ngoại, của má, của những người  đã soi rọi tuổi thơ tôi bằng tình yêu lặng lẽ và dịu dàng.

Tôi vẫn nhớ ngoại tôi, dáng người nhỏ bé, tóc bạc như sương sớm. Ngoại không nói nhiều, chỉ lặng lẽ sống, lặng lẽ thương. Tiếng chày giã trầu của ngoại mỗi trưa hè vang đều, nghe như nhịp ru làng quê êm đềm. Trong đôi mắt mờ đục theo năm tháng, vẫn có một thứ ánh sáng ấm áp – ánh sáng của sự hy sinh và lòng bao dung vô hạn.

Còn má tôi, người đàn bà tảo tần nhất trên đời. Cả tuổi xuân của má gắn với những buổi chợ sớm, với ruộng đồng lấm lem và những đêm khuya còn lom khom khâu áo cho con. Tôi nhớ những ngày chờ má đi chợ về, trong chiếc giỏ tre có vài củ khoai, ổ bánh mì – món quà giản dị mà tụi nhỏ chúng tôi hớn hở như vừa nhận cả niềm vui của thế giới. Sau này, khi tôi đi xa, mỗi lần trở về, tôi cũng hay ghé mua mấy ổ bánh mì cho các em. Không chỉ vì thói quen, mà vì trong hương bánh ấm nồng, tôi thấy lại bóng má năm nào – cần mẫn, thương con và hiền như đất.

Có những ngày tuổi thơ tôi trồng rau, vun luống, tay dính bùn mà lòng lại thấy nhẹ tênh. Có những buổi đi cắm câu ngoài ruộng, trời mưa tầm tã, chỉ có chiếc nón lá bạc màu làm bạn. Giữa đồng vắng mênh mông, tôi nghe tiếng mưa như gọi về ký ức – tiếng cười của má, giọng nói của ngoại, mùi khói cơm chiều bay nghi ngút.

Rồi ngày tôi rời quê vào đại học, mang theo chiếc ba lô cũ đựng đầy ước mơ và cả nỗi nhớ. Giữa phố thị sáng đèn, lòng tôi vẫn hướng về mái nhà nhỏ lợp tôn, nơi có má, có ngoại, có những buổi trưa yên ả và tiếng gà cục tác sau hè. Thành phố rộng, người đông, nhưng chẳng nơi nào khiến tôi thấy ấm bằng tiếng “con về rồi đó hả?” của má.

Và ngày tôi trở về, con đường đất đỏ vẫn còn đó, chỉ có hàng tre trước ngõ thưa hơn xưa. Ngoại không còn nữa, chỉ còn tấm ảnh nhỏ nghi ngút khói hương. Má tôi tóc đã bạc, bước đi chậm hơn, nhưng nụ cười vẫn hiền như nắng sớm. Tôi ngồi bên hiên, nghe tiếng gió lùa qua mái ngói cũ, lòng bỗng se lại – như vừa đánh rơi một mảnh thời gian.

Cuộc đời ai cũng phải lớn, phải đi xa. Nhưng giữa muôn ngả đường, tôi vẫn thấy trong tim mình một ngọn đèn không bao giờ tắt – ngọn đèn của má, của ngoại, của những người phụ nữ đã sưởi ấm tuổi thơ bằng tình yêu thầm lặng. Dù tôi có đi đâu, bao năm nữa, ánh sáng ấy vẫn sẽ soi đường – dịu dàng, bền bỉ, như chính tình thương của họ dành cho tôi.


(Lê Văn Thông )

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2025

Quanh ta : NGƯỜI ĐỒNG HÀNH - Tuệ Lâm.

 



NGƯỜI ĐỒNG HÀNH. 

Tôi và người phụ nữ này ngồi cạnh nhau suốt một chuyến bay từ Bangkok về Sài Gòn. Cô ta có rất nhiều nét tính cách, kiểu hành xử làm tôi thấy chán ghét: 

- Cô chen lấn, không biết lịch sự.

- Cô nói chuyện rất to và cười rất to, và thường cười những chuyện không đáng cười.

- Cô ngồi không đúng chỗ của mình trên máy bay. Ghế của cô cách đó ba hàng, cô vẫn lao xuống ngồi hàng của tôi để được ngồi gần bạn. Cô nói: “Ngồi ở đâu chả được”.

- Cô rất béo, nên người cô tràn sang chỗ của tôi, cô rất hay va chạm vào người tôi và... cười hờ hờ.

- Cô hỏi rất nhiều, không quan tâm tôi có nhu cầu giao tiếp hay không.

- Cô thường xuyên yêu cầu tôi rời khỏi ghế để cô ra ngoài đi toalet. Một chuyến bay cô đi toalet tới năm lần.

- Cô xức dầu gió liên tục.

Tôi đã chịu đựng cô suốt ba tiếng đồng hồ, bởi chuyến bay của chúng tôi bị delay tận một tiếng rưỡi trên máy bay. 

Ban đầu tôi cực kỳ khó chịu, tôi chỉ mong thoát khỏi người đàn bà cục mịch quê mùa này càng sớm càng tốt. Nhưng khi máy bay thông báo sẽ khởi hành muộn, máy bay tắt luôn máy lạnh, tôi cười chua chát: đáng đời nhé, càng muốn thoát khỏi đây nhanh thì càng chậm mà thôi. Tôi quay sang cô, cố quan sát người phụ nữ làm mình chán ngán này, nhìn chăm chú. Có lẽ cô biết tôi đang nhìn, cô quay sang nhìn lại và cười:

- Xin lỗi nha, nãy giờ phiền quá chời.

Tôi thấy mình mỉm cười lại và một câu nói bật ra từ vô thức:

- Không có, đâu có gì phiền. Vui mà.

Cô lại nhe răng cười:

- Ờ. Vui mà. Hơ hơ hơ.

Bỗng dưng trong tôi trào ra một cảm giác rất lạ. Tôi không còn ghét người phụ nữ mà mới trước đó một phút tôi còn muốn thoát khỏi cô ấy nữa. Tôi nói thôi để tôi vào giữa cho, cô ra ngoài mà đi vệ sinh cho tiện. Cô đồng ý. Thế là tôi ngồi giữa hai người phụ nữ. Họ là bạn của nhau trong suốt mấy chục năm. Người bên phải tôi thì trái ngược hoàn toàn. Đó là một người thành công, nhã nhặn, đã đi nhiều nơi trên thế giới. Cô kể tôi nghe về show Thúy Nga ở Las Vegas, kể những chuyến đi của mình tới mọi nơi trên thế giới. Người phụ nữ thành công ấy là bạn của người phụ nữ cục mịch nhà quê bên trái tôi trong hơn nửa đời người.

Chuyến bay của tôi thế là nhẹ nhàng hơn. Tôi nghĩ chỉ cần tôi quay sang phải, chú tâm đối thoại thì mình sẽ có vô vàn những bài học hay. Nhưng tôi thấy mình cứ bị hướng sự quan tâm sang bên trái. Người phụ nữ ấy bị thấp khớp, mỗi lần đứng dậy đều rất khó khăn. Mỗi lần cô ngồi xuống tôi đều quàng tay qua thắt dây an toàn cho cô dù cô cứ bảo gắn vào lát tháo ra cũng vậy. Người xung quanh dần khó chịu vì cô nói to, họ quay xuống nhìn cô, tôi nhìn họ mỉm cười và có ý gửi sự xin lỗi đến họ. Người ta nghe mùi dầu và bắt đầu hỏi ai xức dầu mà khó chịu vậy. Tôi lập tức nói vào: “Mùi dầu thơm quá, dễ chịu quá”. Tôi nói thế để người phụ nữ quê mùa kia đỡ tủi thân. Nào ngờ cô móc chai dầu ra xịt vào tay rồi trét thẳng lên mũi tôi.

- Thơm thì hửi. Hơ hơ hơ.

Tôi bật cười. Rồi cô mời tôi ăn chewing gum, cô ép tôi ăn cái bánh mì của Bamboo, cô bảo tôi phải uống nước táo đi, miễn phí mà. Và ngạc nhiên là cô bảo gì tôi cũng làm. Lúc này, tôi chưa ý thức được vì sao nỗi ác cảm ban đầu của tôi lại biến mất tăm không hình tích như vậy. Chỉ biết tất cả những thứ khó chịu cô mang lại bỗng dưng được chuyển hóa.

Trái với người bạn thành công bặt thiệp bên tay phải tôi, cô là một người nội trợ. Cô từ quê lên, lấy chồng và không biết nhiều về thế giới bên ngoài. Cuộc đời của cô chỉ gói gọn trong nhà, trong bếp. Kiến thức của cô hạn chế, làm sao mình có thể đòi hỏi người ta phải hành xử văn minh được. Cô làm gì cũng vội vã, chen hàng, lấn làn nhìn rất khó chịu, nhưng khi cô buộc miệng than: “Bỏ chồng con ở nhà mấy bữa lo quá. Không biết ăn uống sao”, tôi bỏ qua hết. Rõ ràng là cô đi chơi chuyến này là vì bạn thân rủ. Nếu không phải vì người bạn thân hơn 30 năm kia ép đi, có lẽ cô sẽ không bao giờ rời xa cái nhà và cái bếp của mình.

Và khi tôi thấy cô, dù chân thấp khớp nặng vẫn tay xách nách mang cố chạy thật nhanh đến chỗ xuất nhập cảnh, tôi thấy tim mình chùng xuống và tôi biết cảm giác thân cận này ở đâu ra rồi.

Người phụ nữ ấy rất giống mẹ tôi.

Mẹ tôi sẽ không bao giờ rời xa ngôi nhà mình. Đám cưới tôi, đám ma người thân, thôi nôi cháu nội, mẹ tôi đi đúng một ngày là về. Mẹ tôi chưa đi một chuyến du lịch đúng nghĩa nào trong đời. Mẹ tôi ôm lấy gánh bún, ôm lấy nhà bếp, luôn bất an khi rời khỏi nhà, luôn lo không biết ai nấu ăn cho ba tôi và em trai tôi. Cái nghèo ám ảnh mẹ tôi đến mức mẹ tôi luôn trong trạng thái phải đi làm. Sinh tôi được vài ngày mẹ đã bỏ tôi ở nhà cho bà nội, lao ra đường mưu sinh. Mẹ tôi đã làm đủ thứ nghề trên đời, thợ may, thợ bạc… cho đến khi ổn định với gánh bún. Mẹ tôi luôn ăn đồ nguội hâm lại vì đồ nóng để cho chồng con ăn. Mẹ tôi có một định nghĩa hạnh phúc lạ kỳ nhưng không cá biệt: mẹ hạnh phúc khi chồng và các con mình hạnh phúc. 

Rồi bỗng dưng trên chuyến bay về Sài Gòn, người mẹ cục mịch quê mùa ra đường vẫn mặc nguyên bộ đồ bộ của tôi bỗng dưng hiện ra trước mắt tôi trong hình hài người đàn bà kia. Mẹ tôi chục năm nay vẫn chiến đấu với bênh tiểu đường và thấp khớp. Nhưng cũng như người đàn bà kia, mẹ lúc nào cũng cười. Sự lạc quan biến mẹ thành một chiến binh bất khuất. Và hỡi ôi, tôi biết vì sao tôi phải bảo vệ người đàn bà kia rồi. Bởi vì thâm tâm tôi dậy lên một mong ước:

- Sau này, nếu mẹ tôi có phải đi đâu đó ra chốn văn minh một mình, mong người ta sẽ không kỳ thị mẹ tôi, mong người ta không đánh giá và mong sẽ có ai đó bảo vệ và giúp đỡ bà.

Và mẹ tôi lẫn người đàn bà nhà quê ngồi cạnh tôi ba tiếng trên máy bay kia có phải cá biệt không? Không đâu. Họ nhiều lắm. Trên mảnh đất hình chữ S này, những người như họ mới chiếm đa số. Họ là những con người không mưu cầu danh phận, tiền tài, khám phá thế giới… Trong đầu họ chỉ có chồng và con. Nhìn đôi chân thấp khớp sải từng bước thật nhanh để về nấu cơm tối cho chồng con kia, tôi tràn ngập một tình thương. Họ có thời gian để khám phá thế giới, có thời gian giao tiếp xã hội, học hỏi những điều hay đâu mà bắt họ phải sống văn minh theo định nghĩa của đám đông. Toàn bộ thời gian trên đời, họ đã dành hết cho người thương rồi.

Nên sau này khi thấy một người nhà quê cục mịch trên máy bay hay ở nơi công cộng, tôi biết mình sẽ phải kiên nhẫn và bao dung với họ. Vì tôi mong sẽ có người bao dung và kiên nhẫn với mẹ tôi nếu một ngày mẹ tôi quyết định khám phá thế giới.

Tuệ Lâm

Ngẫm : HỌ GỌI NHAU LÀ... - St trên FB. K9

 


 




HỌ GỌI NHAU LÀ ĐỒNG CHÍ. 

Trên đoàn tàu, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi đi làm thuê. 

- Soát vé 

Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người từ trên xuống dưới một thôi một hồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra. 

Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, cười trách móc : 

- Ðây là vé trẻ em. 

Người đàn ông đứng tuổi đỏ bừng mặt, nhỏ nhẹ đáp : 

- Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao ? 

Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi : 

- Anh là người tàn tật ? 

- Vâng, tôi là người tàn tật.

- Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật. 

Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp : 

- Tôi… không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em. 

Cô soát vé cười gằn : 

- Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật ? 

Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên 

- Anh chỉ còn một nửa bàn chân. 

Cô soát vé liếc nhìn, bảo : 

- Tôi cần xem chứng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ “Giấy chứng nhận tàn tật”, có đóng con dấu bằng thép của Hội người tàn tật ! 

Người đàn ông đứng tuổi có khuôn mặt quả dưa đắng, giải thích : 

- Tôi không có tờ khai gia đình của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi xảy ra tai nạn ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định… 

Trưởng tàu nghe tin, đến hỏi tình hình. 

Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu, mình là người tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàn tật… 

Trưởng tàu cũng hỏi : 

- Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu ? 

Người đàn ông đứng tuổi trả lời anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cho trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình . 

Trưởng tàu ngay đến nhìn cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói : 

- Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứng nhận tàn tật chính là người tàn tật, có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng chế độ ưu đãi vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung. 

Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có hơn 50 ngàn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc : 

- Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mở lượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi.

Trưởng tàu nói kiên quyết : 

- Không được. 

Thừa dịp, cô soát vé nói với Trưởng tàu : 

- Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ. 

Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý : 

- Cũng được. 

Một đồng chí lão thành ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi : 

- Anh có phải đàn ông không ? 

Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại : 

- Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không ? 

- Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không ? 

- Ðương nhiên tôi là đàn ông ! 

- Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông ?

Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem ? 

Mọi người chung quanh cười rộ lên. 

Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói : 

- Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả ? 

Ðồng chí lão thành lắc lắc đầu, nói : 

- Tôi cũng giống anh chị, chỉ xem chứng từ, không xem người, có giấy chứng nhận đàn ông sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ông không phải đàn ông. 

Vị trưởng tàu tịt ngóp, ngay một lúc không biết ứng phó ra sao. Cô soát vé đứng ra giải vây cho Trưởng tàu. Cô nói với đồng chí lão thành : 

- Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi. 

Đồng chí lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng : 

- Cô hoàn toàn không phải người ! Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé : 

- Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì ? 

Đồng chí lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói: 

- Cô là người ư? Cô đưa giấy chứng nhận “người” của cô ra xem nào… 

Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa. 

Chỉ có một người không cười. Ðó là người đàn ông trung niên bị cụt chân. Anh cứ nhìn trân trân vào mọi thứ trước mặt. Không biết tự bao giờ, mắt anh đẫm lệ, không rõ anh tủi thân, xúc động, hay thù hận.

SƯU TẦM TRÊN FB. IN CD

(Last edited by a moderator: 4/12/12) 

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

Thơ : KHÔNG THỂ ĐỢI - Gió Miền Tây.

 



KHÔNG THỂ ĐỢI... 

Trên thế gian, gì cũng có thể chờ

Không làm trước thì làm sau, chẳng vội

Riêng hiếu kính mẹ cha, không thể đợi

Ngày mai biết còn cơ hội hay không?


Chuối chín cây, gió vẫn thổi không ngừng

Lay mạnh thế, chẳng mấy mà rơi rụng

Muốn phụng dưỡng, đừng cầu mong gió lặng

Làm gì đi, kẻo ân hận cả đời!


Từ lúc được sinh ra làm kiếp con người

Học nói học ăn, thành gia lập thất

Có bước đi nào mẹ cha không có mặt?

Công dưỡng dục của Người nặng tựa Thái Sơn!


Tự hứa với lòng mình sẽ đền đáp công ơn

Nhưng thời gian không thể chờ ta được

Nhân sinh vốn vô thường, sinh mệnh thì yếu ớt

Chỉ một chớp mắt thôi, âm dương cách biệt rồi!


Sống trên đời, nào biết trước ngày mai?

Quy luật của tự nhiên, chẳng ai thay đổi được

Sinh–lão–bệnh–tử là… thường tình, không thể khác

Phải chấp nhận nó thôi, ai cũng vậy cả mà!


Có thể nào chọn cửa để sinh ra

Con bần cố nông hay con nhà quyền quý?

Xuất thân từ đâu, nói được gì đâu nhỉ?

Quan trọng là đối xử thế nào thôi!


Mẹ cũng như cha, chỉ có một trên đời

Hai nửa yêu thương, hai nụ cười đôn hậu

Đạo làm con, nhủ lòng luôn hiểu thấu

Hiếu kính Người, không thể đợi ngày mai.

GIÓ MIỀN TÂY ( FB ) 

Ngẫm : TÌNH ANH EM - St trên FB.

  


TÌNH ANH EM. 

Cậu bé cõng em trai đến tận cùng - Buchenwald, Đức, năm 1945

Trong những tháng cuối cùng của Thế chiến thứ hai, Buchenwald là một nơi đầy đói khát, bệnh tật và nỗi đau khổ thầm lặng. 

Trong số các tù nhân có hai anh em người Do Thái mồ côi - một người quá yếu không thể đi lại, người kia quyết tâm không bỏ rơi em mình. 

Cậu bé lớn hơn cõng em trai nhỏ trên lưng qua mỗi lần điểm danh, mỗi lần xếp hàng nhận thức ăn, mỗi đêm lạnh giá trên sàn nhà trại giam lạnh lẽo. 

Ngay cả khi sức lực của chính mình cạn kiệt, cậu vẫn không bao giờ buông tay.

Khi quân đội Mỹ giải phóng trại vào năm 1945, họ tìm thấy người anh trai gục ngã trong tuyết - người em trai yếu ớt vẫn nằm trong vòng tay anh, còn sống. 

Người anh trai qua đời chỉ vài giờ sau đó, cơ thể kiệt sức vì sự tận tâm không ngừng nghỉ. 

Người em trai, người sau này lớn lên và kể lại câu chuyện của họ, từng nói:

“Anh ấy đã cõng tôi vượt qua địa ngục.” 

Đó không chỉ là sự sống sót - đó là sự hy sinh đã mang lại tương lai cho một đứa trẻ.

SƯU TẦM. 

Thơ : HÔM ANH CƯỚI VỢ - Tiểu tử HK.

 



HÔM ANH CƯỚI VỢ. 

Cái hôm anh cưới vợ

Lúa vừa mới trổ đòng

Chị tôi buồn duyên lỡ

Khóc suốt một mùa đông


Ngày xưa anh đã bảo

Lúa chín anh sẽ về

Chị tôi làm con sáo

Nhốt mình ở sông quê


Mười năm dài đằng đẵng

Một hôm anh trở về

Bên người mặc váy trắng

Đi dọc trên triền đê


Chị tôi đang cấy lúa

Thấy anh - điếng lặng người

Mạ non bỗng héo úa

Trên tay chị rụng rơi


Rồi anh cùng với họ

Đắp xây duyên cau trầu

Lúa trổ đòng nức nở

Gục bên ngọn cỏ lau


Ba năm trời dai dẳng

Chị tôi vẫn nặng tình

Một ngày gió yên lặng

Lúa rũ mình ... lặng thinh


Tôi đeo vành khăn trắng

Tạ bao người chia buồn

Hôm ấy trời không nắng

Lúa ngoài đồng thê lương


Mạ non ai mới cấy

Gió chẳng buồn lắt lay

Người cũng không về lại

Nhìn chị tôi ngủ say...


Hôm nay đồng bát ngát

Mùi thơm lúa vàng bông

Tôi nghe người ta hát

"Chị tôi chưa lấy chồng..."


(Tác giả: Tiểu Tử HK).

Ảnh Cao Anh Tuấn

Hương xưa : 60 MÙA THU... - Lê Nguyễn.

 6



60 MÙA THU TRƯỚC... 

Lẩm cẩm chuyện ngày xưa

60 MÙA THU TRƯỚC, MỘT THỜI VĂN NGHỆ HỌC SINH


       Thế hệ học sinh tại miền Nam những năm 1950  “hiền”  lắm! Hai thú vui lành mạnh nhất của họ sau những giờ học mệt nhọc là đi bát phố và chui vào rạp xi nê permanent (thường trực) giá 5 đồng một vé, muốn vào lúc nào, muốn ra lúc nào cũng được. Ở thế hệ này, cũng không phải không có những thành phần bị dư luận đàm tiếu, tuy không nhiều. Đó là những cậu “tuổi teen” (mượn từ ngữ bây giờ), con nhà tương đối khá giả, ăn diện, mặc quần ống túm, áo sơ mi ca-rô, giày “béch-ca-na” (giày mũi nhọn, hơi hếch lên như mỏ (bec) con vịt (canard). Họ bị liệt vào hạng “cao bồi” (cowboy) cho dù chẳng ai đi chăn bò hết. Thật ra, họ cũng chẳng làm hại gì cho xã hội, chỉ cái tội túm tụm, ăn chơi nhiều hơn học hành.    

       Với đám học sinh “con nhà lành”, ngoài chuyện bát phố, xem xi-nê, một số bạn có máu mê văn nghệ tham gia vào phong trào “văn nghệ học sinh”,  rầm rộ từ nửa sau thập niên 1950. Thôi thì các “thi văn đoàn” (chữ thời ấy) mọc lên như nấm. Ở trường học, họ viết “bích báo” (giờ gọi là báo tường), ai có khả năng hơn thì làm thơ gửi đăng trên các báo, nhiều nhất là các nhật báo đương thời:  Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Lẽ Sống, Sài Gòn Mới, Ngôn Luận, Tiếng Dân, Dân Nguyện …. Báo nào cũng dành một hai cột mỗi ngày đăng thơ của bạn đọc gửi về,  phần lớn là của các bạn học sinh. Riêng tờ Ngôn Luận của ông Hồ Anh dành hẳn một trang ruột ngày chủ nhật đăng thơ và văn của các bạn trẻ. Trang này khá sôi động, người phụ trách có một cái tên rất ư lãng mạn là “chị Kiều Diễm Hồng”, mãi về sau mới biết đó là nhà văn phái nam Phạm Cao Củng, trước 1954 chuyên viết truyện trinh thám. 

      Thời đó, hai trong những nhà thơ học sinh được nhiều người biết đến nhất là Vương Đức Lệ, bút danh đọc lái từ tên Lê Đức Vượng, và Thanh Việt Thanh (ở Biên Hòa). Khoảng năm 1957-1958,  nhà thơ Nguyễn Vỹ sáng lập và điều hành tờ tạp chí Phổ Thông với sự góp mặt của nhiều cây bút tên tuổi, riêng ông cũng đăng nhiều bài viết, ngoài tên thật, còn có ít nhất hai bút danh là Tân Phong và cô Diệu Huyền (mục “Mình ơi”). Khoảng năm 1959, ông Nguyễn Vỹ mở ra trên tạp chí Phổ Thông một cuộc thi thơ thú vị, với chủ đề là một câu thơ “Thu ơi, ai nhuộm lá thu vàng”, thơ dự thi làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Hàng trăm bài thơ được chọn đăng, trong đó có thơ của một số cây bút tên tuổi.

      Trong số những độc giả đầu tiên của tạp chí Phổ Thông lúc ấy, có một cậu học sinh 13-14 tuổi đang học lớp Đệ Ngũ (lớp 8 ngày nay), mê văn nghệ và tập tễnh làm thơ. Còn nhớ trong 3 số đầu tiên của tạp chí Phổ Thông, có mục giới thiệu lần lượt ba nhà thơ, hai người trẻ và một người không trẻ lắm. Người không trẻ lắm đâu khoảng 31 tuổi, được giới thiệu trong số báo đầu tiên, có bút danh Hà Liên Tử (Nguyễn Ngọc Biện), người thứ nhì là Thanh Nhung, khoảng 18 tuổi, nữ sinh trường trung học Võ Tánh, Nha Trang. Cô gái này có mái tóc đen dài, phủ xuống gương mặt trái soan, trông rất dễ thương, thơ rất chững chạc. Nhà thơ trẻ thứ ba là Như Lan, khoảng hơn 20 tuổi, là người mà cậu học sinh 14 tuổi có một món nợ không trả được. 

     Bài giới thiệu nhà thơ trẻ Như Lan có trích một vài đoạn thơ tiêu biểu, trong đó có hai câu:

Ngoài hiên vắng con bướm vàng lịm chết

Tôi ngỡ ngàng trời đã tắt mùa Thu

(Đã hơn 60 năm, có thể nhớ sai 1-2 chữ)

       Hai câu thơ bỗng trở thành cái phao cho cậu thiếu niên đang lênh đênh trên biển văn nghệ, chưa biết tìm cho mình bút danh gì. Hai chữ “bướm vàng” đã giúp chàng tìm ra lối thoát, đặt cho mình cái bút danh Hoàng Điệp. Và cái bút danh ấy bắt đầu xuất hiện trong một bài thơ ngắn đăng trên báo Ngôn Luận năm tác giả ở tuổi 15 (1959) và kết thúc sự tồn tại của nó vào giữa năm 1963, với hai bài thơ được thi sĩ Vũ Hoàng Chương chọn đăng trong mục “Thơ và Thi nhân”  trong hai số báo Tự Do ngày chủ nhật của ông Phạm Việt Tuyền. 

      Những năm 1959-1960  ấy, chàng “thi nhân” trẻ tuổi  rải thơ trên hầu hết các tờ  báo, và một trong những kỷ niệm đáng nhớ là với tờ Tiếng Dân, mục thơ do ba văn nghệ sĩ đã thành danh chọn lựa và có lời bình là Thanh Nam, Văn Quang và Nhất Tuấn (tác giả bài thơ “Chủ nhật này Trẫm nhớ Ái khanh không?”). Mục thơ của báo có tên là “Thơ Tâm Tình”,  nhiều bài đăng về sau được báo chọn in trong quyển “Tuyển tập thơ tâm tình”.      

     Sau 1975, tôi làm lạc mất tuyển tập thơ này, quên hết 99%  số bài trong đó, kể cả bài của tôi. Song lạ thay, bài duy nhất còn đọng lại trong ký ức của tôi mãi đến ngày nay lại là bài của một người con gái có cái tên khá lạ. Đó là một bài tình buồn, đằm thắm và đầy cảm xúc:

(QUÊN MẤT TỰA)

Ngày mai anh đã đi rồi!

Buồn lên đôi mắt nửa vời thương đau.

Thôi đừng tính chuyện ngày sau,

Sầu tâm tư đã lên màu khói sương.

Đâu anh lối cũ thiên đường,

Hồn ngây ngất đợi chán chường đấy ư?

Cúi đầu vọng bước tương tư,

Hồn cuồng phong, phút tạ từ mong manh.

Đây môi thơm đợi chờ anh,

Xin hôn đi, để em thành cố nhân! 

Lệ rơi đã lạnh bàn chân, 

Từ đây buồn cả mùa Xuân cuộc đời,

Tiếng ru sầu rụng bên trời,

Còn bâng khuâng tưởng bóng người ngày xưa!

TRẦN LƯU HỒNG LIÊN

       Hai câu: “Đây môi thơm đợi chờ anh / Xin hôn đi, để em thành cố nhân! “ thật tinh tế và tuyệt vời, chúng vượt xa tầm của một bài thơ văn nghệ học sinh, xứng đáng được đứng chung với những câu thơ để đời trong làng nghệ thuật. Chúng toát ra nỗi buồn đằm thắm, chịu đựng và đầy nét bao dung của người con gái bị tình phụ! Có lẽ ấn tượng mạnh về chúng đã khiến tôi nhiều lần đọc cả bài thơ và nhớ xuyên suốt đến bây giờ.

     Bài thơ được trình làng khi tôi mới 16-17 tuổi, người con gái làm bài thơ ấy chắc phải hơn tuổi tôi ít nhiều. Ngày nay, nếu còn sống, chị đã là một bà lão trên dưới 80, không chắc chị còn nhớ trọn vẹn bài thơ ấy, và khi biết rằng có một cậu học trò năm xưa  nhớ mãi bài thơ của mình trong suốt  60 năm trời, chắc là chị ngạc nhiên lắm!


***

       Trở lại chuyện văn nghệ học sinh,  chuyển biến đáng kể nhất trong thời tuổi trẻ của tôi là với tờ Bán nguyệt san Gió Mới thuộc Tổng Liên đoàn Học sinh , khi tôi đang ở tuổi 16, bắt đầu học lớp Đệ Nhị trường công lập Hồ Ngọc Cẩn, Gia Định (1960). Tờ báo của bộ ba Trần Văn Sơn (chủ nhiệm), Đinh Từ Thức (chủ bút) và Nguyễn Triết Lý (Tổng Thư ký tòa soạn). Tổ chức TLĐHS hoàn toàn độc lập với Bộ Quốc gia Giáo dục, từng có nhiều bài đả kích chính sách giáo dục của ông Bộ trưởng Trần Hữu Thế, về sau thì ủng hộ chương trình hành động của ông Bộ trưởng Nguyễn Quang Trình, nguyên Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn.

     Gió Mới là một tờ báo rất đứng đắn, thường có bài của những cây bút khả kính như  Nguyễn Thiệu Lâu (lịch sử), linh mục Trần Văn Kiệm (khoa học), Lê Giang Huân … Báo in tại nhà in Nguyễn Đình Vượng là cơ sở ấn loát nổi tiếng in đẹp lúc bấy giờ, chữ in gãy gọn, không  lem luốc (vì chữ chì bị mòn) như nhiều báo khác. Đặc biệt, tờ Gió Mới dành cho thơ một sự trang trọng  rất đáng quý, bài thơ nào cũng được in chữ to, nét nghiêng và đóng khung  nghiêm chỉnh. Đặc biệt hơn nữa, trong khi các báo khác chỉ trả lời qua loa số bài đã nhận được của độc giả gửi đến, với câu quen thuộc “bài không đăng không trả lại bản thảo” thì Gió Mới là tờ báo duy nhất trả lời từng người một về số phận bài họ gửi đăng, bài nào “sẽ đăng trong một số tới”, bài nào “rất tiếc không đăng được” đều được trả lời rành mạch, rõ ràng.

     Thời đó, ngoài các ký giả cơ hữu của tòa soạn báo làm việc có lương hướng, hầu hết bài viết (thơ, văn) của người ngoài gửi về được tòa soạn xem là “lai cảo”, được chọn đăng là một vinh dự, không có nhuận bút bao giờ, nhiều lắm là một tờ báo biếu. Tất nhiên, với những thi tài vang danh bốn bể như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, thì vấn đề có thể khác. Họ thường được các tòa soạn “xin bài”, có nhuận bút hay không, chỉ hai bên biết.

    Vào những năm 1960-1961, tờ BNS Gió Mới là nơi “thường trú” của một số cây bút văn nghệ học sinh đã tương đối già giặn, gồm hầu hết ở miền Trung (Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng …)  Đó là những Lam Hồ (nhóm Cùng Đi Một Đường), Luân Hoán, Mặc Phương Đình, Mặc Trúc Sơn Phạm Đình Hiệu, Thạch Nhân, IP Lê Lương Nguyên …, riêng đại diện Sài Gòn chỉ thấy có cậu học sinh …Hoàng Điệp. Anh chàng kể sau cùng này có 4 bài thơ đăng trong tờ Gió Mới khổ lớn (cũ) và 3 bài trong tờ khổ nhỏ (mới) xuất hiện khoảng năm 1962, lúc ấy mục thơ do nhà thơ Nguyên Sa phụ trách. Tờ Gió Mới khổ nhỏ ra hàng tháng đến mười mấy số thì đình bản. Trong số những tên tuổi  “văn nghệ học sinh” kể trên, có người nay còn sống ở Việt Nam, có người đang sống ở nước ngoài, có người không còn nữa.

     Mùa Thu năm 1960, tờ Gió Mới số 75 dành hơn nửa trang lớn (trang 3) đăng thông điệp của Tổng thống Ngô Đình Diệm nhân kỷ niệm Thánh đản đức Khổng Tử. Thời đó, học thuyết của Khổng Tử vẫn còn đắc dụng trong học giới, không bị lạm dụng bát nháo vào những mục tiêu chính trị như bây giờ, nên hàng năm, đích thân Tổng thống VNCH gửi thông điệp cho dân để nhắc nhở về một nền tảng đạo lý của cha ông. Có lẽ do bức thông điệp chỉ chiếm hơn nửa trang báo lớn nên bài thơ Thu Về của chàng trai 16 tuổi có vinh dự được trám vào khoảng trống, chung một trang với văn kiện quan trọng này. 

      Đó là chút kỷ niệm về một mủa Thu cũ, vẫn còn đậm nét sau đúng 60 năm!


LÊ NGUYỄN 

Trung Thu 2020

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Bài học : CÁI GIÁ CỦA KIÊU NGẠO - St trên FB.

 



CÁI GIÁ CỦA KIÊU NGẠO. 

Có một anh chàng dắt theo một con chó ngao Tây Tạng trị giá cả bạc triệu ra ngoài đi dạo. 

Anh ta hễ gặp ai cũng đều đem con chó ra khoe, lại còn huyênh hoang mà nói rằng: 

“Người nếu là không có bốn năm trăm cân sức lực thì kéo cũng không kéo nổi chú chó của tôi”.

Lúc này, anh chàng nhìn thấy một ông già ngồi bên đường cùng với một con chó gần như đã rụng hết lông đang ngồi bên cạnh.

Con chó ngao Tây Tạng của anh ta hướng về phía con chó đó kêu sủa ầm ĩ, nhưng con chó già kia không thèm để ý đến nó.

Chàng trai cảm thấy không vui. Nói rằng: 

“Ông lão này! .Con chó của ông lớn thế kia, là giống chó gì vậy? .Hãy để hai con chó của chúng ta đấu với nhau thử xem? .Nếu chó của ông thua hãy đưa cho tôi 500 đồng, còn nếu chó ngao Tây Tạng của tôi thua thì tôi sẽ đưa cho ông 2000 đồng”.

Ông lão nói: 

“Tôi đang lo lắng về thức ăn tháng sau của anh bạn già này đây! .Nếu được thì hãy đánh cược lớn hơn một chút? .Nếu chó của tôi thua, tôi sẽ đưa cho anh 5 vạn, còn nếu chó của anh thua thì anh hãy đưa cho tôi 3 vạn”.

Anh chàng cười lớn:

“Con chó này của tôi là giống chó ngao Tây Tạng thuần chủng. Sau này, ông đừng có nói là tôi đã không nói cho ông biết trước. Được thôi!”.

Hai con chó giao tranh chưa được hai phút, chó ngao Tây Tạng kia đã bị cắn tơi bời , m áu me khắp nơi .Nó vô cùng khiểp sợ  nến không còn dám kêu sủa gì nữa.

Anh chàng thua mất 3 vạn đồng, vô cùng sầu não: 

“Ông này, con chó đó của ông là chó gì thế? .Sao lại dũng mãnh đến thế kia?”.

Ông lão vừa đếm tiền vừa nói: 

“Đến bây giờ tôi cũng không biết nó là chó gì nữa, trước khi chưa rụng lông thì gọi là sư tử!”.


Bài học rút ra:

Ở trong đời sống, nên ”Biết người biết ta”,

Dù mạnh mẽ thế nào, có tài giỏi tới đâu. Cũng nên khiêm nhường một chút, đừng quá kiêu căng và ngạo mạn...


St.

Đỡ buồn : LỜI NÓI - St trên FB.

 




LỜI NÓI. 

Muỗi đực về nhà nói với vợ 

 -Anh sẽ đi cắn con bò, con voi và mang về cả xô máu cho em.

Muỗi cái.

 -Ừ, tuyệt lắm. Giờ đi ngủ đi.

Muỗi đực: 

 -Anh sẽ đưa em đi du lịch Sapa bằng xe Mercedes, đi du lịch thế giới bằng du thuyền hạng nhất, qua Paris đi shopping .

Muỗi cái.

  -Được rồi... Ngủ đi anh."

Muỗi đực: 

  -Em không tin anh à? Anh sẽ mua cho em một bộ gậy golf Honma Beres 2020 5 sao Fullset , một bộ sưu tập đồng hồ như Piaget, Rolex, Richard Miles ..

Muỗi cái.

- Trời ơi, đi ngủ ngay đi.

Muỗi đực: 

  -Anh sẽ làm tất cả vì em, tình yêu của anh."

Muỗi cái: 

  -Em đã nói bao nhiêu lần rồi? Đừng có về nhà sau khi đi cắn mấy ông lãnh đạo nữa!

SƯU TẦM. 

Quê hương : CÁI TỘ - St trên FB.




 CÁI TỘ !

Nhiều người thắc mắc tại sao cá rô kho tô mà lại gọi là kho tộ .

Thật ra hồi xưa ở miền quê Nam Kỳ cái tô chỉ lớn hơn cái chén một chút mà thôi . Cái tô lớn hơn người lớn hồi đó gọi là cái tộ . Cái tô to nhứt gọi là cái tượng .

Sau này hình như lớn nhỏ gì người ta cũng gọi là tô .

Món cá kho tộ sau nầy mấy quán ăn kho bằng cái ơ bằng đất nung . Nhưng nhiều người thành thị không rành nên gọi là nồi đất .


Ảnh cái tộ vùng Bến Tre xưa

#mientaymenyeu

Suy ngẫm : CẢNH GIỚI CỦA GIÁO DỤC - Sưu tầm. UB

 




CẢNH GIỚI CỦA GIÁO DỤC 

Đây mới là cảnh giới cao nhất của giáo dục

Mục đích cao nhất, cảnh giới cao nhất của giáo dục ở các thời đại là gì? Phải chăng là để bồi dưỡng ra những nhân tài kiệt xuất, những kiến trúc sư giỏi, những bác sĩ giỏi hay những nhà kinh doanh tài ba tạo ra nhiều tiền của, vật chất cho xã hội. Kỳ thực, hết thảy những điều này đều không phải cảnh giới cao nhất của giáo dục!

Trước đây, một vị giáo sư người Mỹ đã kể câu chuyện: Vào một buổi sáng sớm sau khi cơn bão đi qua, có một người đàn ông đi tản bộ trên bờ biển. Ông ta nhìn thấy rất nhiều vũng nước to nhỏ, trong đó có những con cá nhỏ bị bão táp đêm qua cuốn lên và mắc cạn ở đó. Những con cá nhỏ bị mắc cạn ở đó có lẽ lên tới mấy trăm con, thậm chí cả ngàn con. Người đàn ông biết rằng chẳng bao lâu nữa, mặt trời lên và nước sẽ bị cát hút khô, những con cá ấy sẽ bị khô cạn mà chết hết.

Đang suy nghĩ như vậy, ông ta nhìn thấy trên bờ biển có một cậu bé không ngừng nhặt những con cá nhỏ từ trong các vũng nước lên và ném chúng xuống biển. Người đàn ông tiến lại gần đứa trẻ và nói: “Này cậu bé, trong những vũng nước này có hàng trăm, ngàn con cá, cháu cứu không nổi đâu!”

“Cháu biết điều đó!” Cậu bé không ngừng nhặt cá và trả lời.

Người đàn ông nói tiếp: “Ồ! Vậy cháu vẫn tiếp tục ném những con cá này xuống biển sao? Có ai quan tâm đâu?”

Cậu bé vẫn không ngừng nhặt cá và nói: “Nhưng những con cá nhỏ này quan tâm!”

Quả thực, câu chuyện nhỏ này rất tương ứng với một câu nói của nhà thơ vĩ đại Tagore: “Mục đích của giáo dục là phải truyền tải được hơi thở của mạng sống cho con người”. Bởi vậy, “giáo dục” là bắt đầu từ việc tôn trọng sinh mệnh, khiến nhân tính hướng thiện, khiến con người có tấm lòng rộng mở, và càng phải khơi dậy được “thiện căn” tốt đẹp của con người.

Trước đây, có một nạn nhân sống sót tại trại tập trung của Đức Quốc xã từng trở thành hiệu trưởng của một trường trung học ở Mỹ.

Mỗi khi có một giáo viên mới đến trường, ông đều gửi cho người đó một bức thư, trong đó viết rằng: “Thầy/cô giáo thân mến! Tôi đã từng tận mắt chứng kiến những tình cảnh mà nhân loại không nên thấy, những phòng khí độc do các chuyên gia là kiến trúc sư kiến tạo ra, những trẻ em bị các bác sĩ uyên bác hạ độc, những trẻ sơ sinh bị các hộ sĩ được huấn luyện sát hại. Chứng kiến hết thảy những chuyện này, tôi tự hỏi: Giáo dục rốt cuộc là vì điều gì?

Tôi thỉnh cầu các bạn, hãy trợ giúp học trò của mình trở thành những con người có nhân tính. Chỉ khi học trò của các bạn trở thành những người có nhân tính thì các năng lực đọc, viết, tính toán của các em mới có giá trị”.

Một điều rất hiển nhiên rằng, con người có một mặt là Thú tính và một mặt là Thiên sứ. Mục đích của giáo dục là khiến linh hồn của con người được tôi luyện, vượt qua thú tính mà chuyển hóa về mặt Thiên sứ.

Giáo dục là giáo dục linh hồn con người, chứ không chỉ đơn thuần là nhồi nhét các nhận thức và tri thức lý trí. Mục đích cuối cùng của giáo dục lâu dài và vĩ đại. Nếu không, tri thức của bạn càng nhiều, thì chỉ càng nguy hại đối với nhân loại và đối với sinh mệnh.

Hiện nay, việc giáo dục trong trường học của chúng ta thường không coi trọng việc giáo dưỡng nhân cách cơ bản, đạo đức cơ bản, tình cảm cơ bản của học sinh. Điều đó khiến cho một bộ phận không nhỏ học sinh thờ ơ, lãnh đạm với mạng sống của người khác, thờ ơ với thế sự, đến mức lạnh lùng cay nghiệt.

Vậy nên, một vị chuyên gia giáo dục Nhật Bản đã nói một câu như thế này: “Chúng ta cần bồi dưỡng cho học trò đối mặt với một khóm cúc dại mà cảm xúc dâng trào, trống ngực đập thình thịch” . Loại tình cảm này cũng chính là cảm xúc của cậu bé trước những con cá bị mắc cạn trên bờ biển ở câu chuyện trên.

Nếu như nhìn thấy một con cá hoặc cây cỏ đều không thấy có giá trị gì, sẵn sàng chà đạp, thì cho dù điểm số các môn học ở trường đạt rất cao, cũng đã mất đi giá trị nhân sinh đáng quý trong đời.

Tôn trọng con người, tôn kính vũ trụ, chính là tôn trọng sự tồn tại của sinh mệnh, biết được sinh mệnh là vô cùng trân quý. Con người không được tự dưng cướp đoạt sinh mệnh, cho dù đó là những sinh mệnh cấp thấp thế nào đi nữa.

Là một người mà đối với sinh vật hoặc động vật cấp thấp đều không hề có tình cảm yêu mến, thì có thể hy vọng người đó tôn trọng với sinh mệnh cao cấp hơn hay không? Trái lại, là một người mà trong lòng luôn tràn ngập tình yêu thương, quan tâm tới cây cỏ, hay dù là một con cá nhỏ, thì đối với sinh mệnh cao cấp hơn, đối với tính mạng con người, người đó chắc chắn cũng sẽ tôn trọng.

Cổ nhân nói: “Không gì bi thương hơn những ai có trái tim đã chết”. Một người mà lạnh lùng vô cảm đối với thế giới bên ngoài thì chính là một người không còn hy vọng. Một dân tộc thờ ơ coi thường mạng sống của người dân là một dân tộc không có tương lai.

Trong giáo dục, có lẽ có rất nhiều công việc cụ thể phải làm, có rất nhiều việc cụ thể phải nắm bắt. Nhưng việc bồi dưỡng học trò tốt nhất chính là bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng những giá trị nhân văn, trong đó căn bản nhất, quan trọng nhất chính là đánh thức lương tri biết trân quý, tôn trọng sinh mệnh của học trò.


An Hòa

 (dịch theo sự cho phép của tác giả)