Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2025

Đời người : NGƯỜI MẸ... - Khuyết danh.

 



NGƯỜI MẸ... 

Thông tin bệnh nhân AIDS chuẩn bị nhập viện sinh con đã khiến cả khoa sản náo loạn. Các y tá đồng thanh nói: “Ai sẽ chịu trách nhiệm trong trường hợp bị lây nhiễm?” Ngay cả một số bác sĩ cũng phản đối: “Nếu bệnh nhân khác bị lây nhiễm qua dụng cụ phẫu thuật và giường chiếu thì phải làm thế nào?” Sau một hồi tranh luận, cuối cùng bệnh nhân cũng được sắp xếp vào chiếc giường số 13, phòng cách ly đặc biệt của khoa sản. Khi trưởng khoa phân công trực ban, không ai muốn nhận vào trong đó. Cuối cùng chỉ còn lại tôi – một y tá vừa tốt nghiệp ba tháng, nơm nớp lo sợ bước vào căn phòng.

Vừa vào tới phòng, người mẹ sắp sinh mỉm cười với tôi. Tôi cứ nghĩ rằng những phụ nữ mắc loại bệnh này hẳn sẽ phấn son trang điểm lòe loẹt. Nhưng không phải vậy, cô cũng như những người phụ nữ bình thường khác, khuôn mặt hiền từ, mái tóc dài ngang vai, chân đi đôi giày búp bê…

“Cảm ơn cô!” Một giọng nói trong veo và nhẹ nhàng, cô là một phụ nữ bình thường nhưng lại mắc căn bệnh không hề bình thường chút nào.

Thì ra người mẹ trẻ tại giường số 13 này là một cô giáo trung học phổ thông. Một hôm trên đường từ trường về nhà, cô bị tai nạn xe hơi. Vì mất quá nhiều máu nên cô phải truyền máu gấp và không may bị nhiễm HIV. Đến tận khi cô đi khám thai, bác sĩ mới phát hiện cô đã mắc phải căn bệnh thế kỷ. Cuộc đời cô đã bước sang một ngã rẽ mới, ảm đạm và mờ mịt với kết cục buồn phía trước. Đáng thương nhất là đứa bé trong bụng, nguy cơ bị lây nhiễm cũng rất cao, xác suất không dưới 20% đến 40%. Người mẹ không còn hệ thống miễn dịch, vì thế các biến chứng trong quá trình sinh là vô cùng nguy hiểm.

Khi chồng cô đến đã khiến cho cả khoa một phen kinh ngạc. Chồng của một phụ nữ bị AIDS thì trông thế nào nhỉ? Khác xa với tưởng tượng của chúng tôi, chồng cô là một nhân viên văn phòng giỏi máy tính, đeo kính cận, cao ráo, lịch sự, và có phong thái rất đĩnh đạc.

“Anh à, anh đoán xem con chúng ta sẽ giống em hay giống anh hơn?” Tôi đang trải ga giường, nghe thấy những câu nói nhỏ nhẹ nỉ non của đôi vợ chồng trẻ thì sống mũi cay cay, nước mắt bắt đầu rơm rớm. Thì ra họ là một gia đình hạnh phúc. “Tất nhiên là giống anh rồi, nếu là con gái thì mới giống em chứ!” Cô vợ nghe vậy còn phụng phịu làm nũng ra điều không chịu. Khi tôi bước ra khỏi phòng bệnh, nước mắt tôi chảy dài, trái tim tôi chua xót vô cùng.

Hàng ngày cô ấy phải uống nhiều loại thuốc khác nhau để kiểm soát lượng virus HIV, hầu như ngày nào cũng phải lấy máu và truyền dịch. Hai cánh tay đầy đặn, nõn nà nay đã chi chít những vết kim tiêm. Tôi là y tá mới ra trường, vốn sống còn ít ỏi lại khá “nhát gan”. Nhất là những lúc lấy máu, tôi vẫn thường làm cô ấy đau đến chảy nước mắt, nhưng cô chưa bao giờ nổi cáu với tôi, chỉ âm thầm cắn răng chịu đựng, thỉnh thoảng còn mỉm cười nói ‘không sao’.

Chỉ vài ngày sau khi cô nhập viện, tôi dần dần rất thích cô ấy.

Tuy còn vài ngày nữa mới đến ngày sinh, nhưng cả khoa đã chuẩn bị sẵn sàng. Cô năm nay đã 31 tuổi lại mang trong mình căn bệnh AIDS, nên bệnh viện cả trên lẫn dưới đều trong trạng thái đề phòng cao độ.

Nhưng bản thân cô lại rất bình tĩnh, hàng ngày đều đọc sách và nghe nhạc, còn viết thư tình hoặc vẽ tranh tặng con yêu.

Một hôm tôi đánh bạo hỏi, tại sao cô lại sinh đứa bé ra, rằng cô có biết nguy cơ lây nhiễm là rất cao? Cô vừa mỉm cười vừa trả lời tôi: “Con tôi đã đến với tôi, đó là duyên nợ, hơn nữa tôi không có quyền cướp đi sinh mệnh của bất kì ai.” Tôi do dự, nhưng vẫn quyết đinh hỏi: “Nếu cháu bị nhiễm HIV thì sao?” Cô ấy im lặng một lúc, sau đó tiếp tục nói: “Nếu không thử thì con tôi sẽ không có cơ hội sống nào.” Tâm trạng tôi vừa buồn vừa xót xa, không khí trong căn phòng trở nên ngột ngạt.

Khi tôi chuẩn bị ra ngoài, cô đã nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi, đôi mắt rưng rưng và nói:“Tôi muốn nhờ cô một việc, khi tôi sinh con dù có xảy ra chuyện gì, chồng tôi nhất định sẽ cứu lấy tôi. Nhưng tình trạng của tôi cô cũng biết rồi đó, vì thế nếu thực sự xảy ra chuyện xấu, xin hãy cứu lấy con tôi.” Tôi cảm động ôm cô và khóc, cô đúng là một người mẹ thực sự.

Dưới ánh đèn huỳnh quang nhạt màu, cô nằm yên lặng trên bàn mổ, thân dưới không ngừng chảy máu, nước ối vẩn đục đã ộc ra. Điều này có nghĩa là thai nhi đang lâm vào tình trạng nguy hiểm vì thiếu oxy. Thể chất của cô vô cùng đặc thù, không hề có phản ứng với thuốc tê, chỉ có thể chọn mổ sống để lấy thai nhi ra và chấp nhận hy sinh người mẹ. Hai là tiêm thuốc gây mê, nhưng đợi khi thuốc có tác dụng thì em bé trong bụng đã bị ngạt thở hoặc bị sốc vì liều gây mê quá cao, nhưng chỉ như vậy mới có hy vọng cứu được người mẹ. Cả hai trường hợp đều khiến bệnh viện và gia đình lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.

Cô nắm chặt tay tôi, đôi mắt nhìn tôi như van nài, giọng nói yếu ớt nhưng rất kiên quyết: “Cứu lấy con tôi, nhanh cứu lấy con tôi, không cần phải quan tâm đến tôi…!”Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến cái nhìn tuyệt vọng đến vậy, trong một căn phòng cũng tuyệt vọng như thế. Một người phụ nữ không thể gây tê, cũng không thể gây mê khi mổ đẻ, bao nhiêu bác sĩ đứng đó đều bất lực.

Con dao phẫu thuật nhanh chóng được đưa xuống bụng dưới, lớp da, lớp mỡ, lớp cơ, niêm mạc rồi tử cung… Người mẹ co giật từng cơn, toàn thân giãy giụa, quằn quại, mắt trợn ngược, khuôn mặt biến dạng vì đau đớn, miệng cắn chặt chiếc khăn trắng và rên lên từng cơn xé lòng. Tôi không thể chịu nổi khi chứng kiến những giọt nước mắt của cô rơi xuống lã chã. Và tôi biết, đó không chỉ là đau đớn mà còn là tình yêu của người mẹ. Đến tận hôm nay tôi mới hiểu vì sao làm con phải hiếu thảo với cha mẹ. Bởi mỗi đứa con chào đời là biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu nhọc nhằn, thậm chí là hy sinh cả tính mạng của mẹ.

Cuối cùng, thai nhi đỏ hỏn cũng được đưa ra và khóc lên tiếng khóc yếu ớt đầu đời. Người mẹ vừa ngất lịm đi, đột nhiên nghe thấy tiếng khóc của con nên cô cố gắng hé mở đôi mắt liếc nhìn về phía con yêu, nhưng rồi mí mắt sưng húp nặng trịch lại vội vã cụp lại. Tôi vội vàng tháo đai cố định ở chân và tay cho cô, vì gồng mình vật lộn với cơn đau, cổ tay cổ chân cô đều rớm máu. Hai mắt tôi đẫm lệ, trái tim tôi cũng như thắt lại…

Thật khó để tin rằng đây là một người mẹ AIDS, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng nhìn thấy con trai của mình. Đôi mắt cô nhắm lại và sẽ không bao giờ còn mở ra được nữa. Cô bị nhiễm trùng nặng và không thể cầm được máu nên đã mãi mãi ra đi.

May mắn là em bé âm tính với virus HIV. Tôi tin rằng ở trên cao kia, cô cũng đang mỉm cười mãn nguyện.

Khi làm vệ sinh phòng bệnh, tôi đã tìm thấy một lá thư dưới gối của cô, bên trong còn vẽ một bức tranh ông mặt trời, bên dưới mặt trời là một đôi tay nhỏ. Cô viết cho con trai rằng: “Con yêu, cuộc sống giống như mặt trời, hôm nay lặn xuống ngày mai nhất định sẽ lại lên.” Tôi không thể ngăn những giọt nước mắt, cuộc sống thật quá mong manh và cũng thật mạnh mẽ. Người mẹ nào mà chẳng thương con? Vậy cớ sao chúng ta lại phải phân biệt đối xử?

Cuối cùng tôi đã hiểu, cô cũng như những người mẹ bình thường khác, dũng cảm để giành lấy sự sống cho con.

Khi đứa bé được xuất viện, cháu nằm yên bình trong vòng tay cha. Ban đầu đứa trẻ khóc rất to, giống như biết mẹ nó sẽ không bao giờ còn quay về nữa. Nhưng nó chợt ngừng khóc khi tôi đặt bức thư lên ngực. Dường như trong lòng bé cũng đang mỉm cười khi nhận lấy cuộc sống vĩnh cửu này. Mai này lớn lên em sẽ biết rằng, mẹ của em là người mẹ vĩ đại nhất trên đời.

(Không rõ tác giả )

Thơ: MẸ ƠI!... - Hoàng Xuân.

 



MẸ ƠI!

(Viết tặng cho những ai không còn mẹ)


Con trở về khi gió chuyển sang đông

Mái ngói cũ rêu phong đầy trước cổng

Mẹ chẳng gọi, chỉ cha già đứng ngóng

Rớt trong chiều dòng lệ nóng buồn tênh.


Bên hiên nhà lá rụng cỏ đan xen

Chiếc võng cũ ngủ quên cùng khúc hát

Gió lặng đứng cơn mưa về rây hạt

Bầy chim xưa tan tác đậu cheo leo.


Con cúi đầu nghe kỷ niệm rơi theo

Từng tiếng gọi trong veo giờ im ắng

Bếp lạnh ngắt, tàn tro nằm câm lặng

Khói lam chiều chở nặng nỗi niềm quê. 


Cuối hàng tre chẳng còn dáng mẹ về

Chỉ còn lại miền quê chiều lộng gió

Chén cơm nguội đĩa rau còn dang dở

Mênh mang lòng nức nở giọt lệ nương.


Con trở về khi gió cõng mưa buồn

Góc sân cũ giàn bông cau rụng trắng

Tiếng mẹ gọi thuở nào nghe văng vẳng

Giờ âm thầm rớt lặng giữa hư không.


Ngày mẹ đi sương phủ lối ra đồng

Vết chân con mỏi mòn mùa rạ cháy

Cha lặng lẽ ngắm chân trời xa mãi

Hắt hiu buồn gian bếp cũng mồ côi.


Con trở về căn nhà trống chơi vơi

Lá úa rụng cuốn rơi điều chưa nói

Từng cơn gió cõng buồn giăng vời vợi

Con gục đầu tê tái gọi: "Mẹ ơi!"


HOÀNG XUÂN. 

Hồi ức : CHUYỆN ĐI MỸ... - Huỳnh Ngọc Chênh.

  



CHUYỆN ĐI MỸ LẦN ĐẦU

Những năm mới mở cửa, đi Mỹ không phải chuyện dễ đối với nhiều người Việt Nam, trước hết là chưa có nhiều người giàu có như bây giờ để có tiền mua vé máy bay và thứ đến là khó có được visa, ngay cả người giàu cũng khó xin được visa và thêm nữa có visa mà phía nhà nước VN không cho đi cũng chịu. 

Do vậy mà ba đứa tui làm báo lâu năm và ông giáo sư Hà Nội dạy đại học cũng có bề dày mà cũng đều mới lần đầu đến Mỹ.

Hồi đó mới xảy ra vụ 11/9 nên Mỹ chưa cho máy bay quốc tế đáp xuống DC, chúng tui phải xuống Chicago rồi dùng máy bay nhỏ nội địa của Mỹ bay từ O’Hara đến phi trường Kennedy. Chúng tui đến DC vừa tối, bộ ngoại giao nhờ một Việt Kiều là một vị giáo sư đại học lái xe ra phi trường đón chúng tui về một khách sạn ở trung tâm DC. 

Vị giáo sư làm xong nhiệm vụ ra về, tối hôm đó chúng tui phải tự lo. 

Tắm rửa thay đồ xong chúng tui xin một tấm bản đồ của khách sạn, hồi đó chưa có Google map, chưa có smart phone, tự ra phố mò mẫm lội bộ tìm quán ăn.

Trung tâm thủ đô của siêu cường lớn nhất nước Mỹ mới 8g tối mà đã vắng tanh như chùa bà đanh. Đọc sách báo biết rằng thủ đô Washington của Mỹ khá nhỏ và ít dân so với nhiều thành phố khác, bây giờ tận mắt nhìn vẫn còn thấy bất ngờ vì sự vắng lặng của nó, có lẽ một phần cũng do ảnh hưởng của vụ 11/9, ngũ giác đài nằm ngay cạnh đây cũng bị tấn công kia mà.

Đi rã hết cả giò chi thấy toàn cao ốc văn phòng hoặc các tòa nhà chính phủ đóng cửa im lìm chẳng thấy một khu nhà dân hay quán sá gì. Mãi mới thấy một quán bar ở góc đường cửa đóng im ỉm khá buồn tẻ, dĩ nhiên không phải là nơi có thể ăn tối. Đi thêm vài con đường nữa thì mừng quá thấy có đèn sáng, ghé đến quả nhiên là một nhà hàng Tàu. Chúng tui sung sướng ào vào thì bị một nhân viên của nhà hàng chặn lại hỏi đã book chỗ trước chưa. Té ra mới biết ở Mỹ không giống như VN, muốn đi ăn nhà hàng phải đặt bàn từ trước. Chúng tui trả lời là khách nước ngoài lần đầu mới đến Mỹ vừa xuống sân bay không biết để đặt bàn trước, đang đói quá có thể cho chúng tui vào được không vì có khá nhiều bàn còn trống. Họ lắc đầu từ chối và lịch sự mời chúng tui đi ra. 

Đi đến gần 10g vẫn chưa tìm ra quán ăn nào khác, chúng tui đành về lại khách sạn lục mì gói mang theo từ VN ra tự nấu ăn.

Ăn xong do jet lag, nhiều người ngủ không được, lại rủ nhau đi khám phá Washington by night. Mỗi đứa thủ trong túi vài trăm đô, tiền mang theo chứ lúc đó chưa có tiền Mỹ, quyết tâm tìm chỗ nào đó thú vị chơi một bữa hoành tráng để kỷ niệm đêm đầu tiên đến nước Mỹ. 

Đi miết cũng chẳng tìm thấy chỗ nào vui chơi được nên nhớ đến bar rượu gặp khi tối. 

Quán bar ở góc đường bề ngoài trông hiền lành và vắng vẻ, nhưng sau khi đẩy cánh cửa dày nặng nề bước vào trong thì cả một trời ác liệt làm cả bốn đứa tui choáng váng. 

Đèn xanh đỏ chớp ì xèo, nhạc nghe cũng vừa phải, hơn một chục bàn nhưng chỉ có một ít khách ngồi, tất cả đều lặng im không ồn ào như các quán bar mà tui đã từng biết ở SG. Nhưng có một cái sân khấu thấp nằm giữa với bốn góc có 4 cột inox và uốn éo trên đó là bốn cô gái trẻ đẹp bốc lửa 🔥 mà chẳng mặc gì trên người. 

Qua cơn choáng ngợp, chúng tui lấy lại bình tỉnh tìm một cái bàn trống vào ngồi và lặng im thưởng ngoạn những tòa thiên nhiên di động trên sân khấu, trắng đen nâu vàng gì cũng có đủ. 

Ngồi một hồi lâu vẫn không thấy ai đến hỏi, khát nước quá chúng tui mới đến quầy hỏi mua bia mang về bàn uống, mỗi chai chỉ 7 đô quá rẻ. 

Nói các cô múa cột trên sân khấu không mặc gì hết cũng không đúng. Thật ra các cô đều có trang phục, ấy là đôi giày cao gót và một sợi dây thun cột ngang qua đùi trên đó giắt quanh mấy tờ 1 đô mà ngay sau đó chúng tui biết rằng không phải do các cô tự cài vào để trang trí mà do khách bên dưới bước đến cài vào để bo cho các cô.

Trong khi các bàn khác khách thỉnh thoảng lên kéo dây thun đùi ra nhét đô vào thì bàn chúng tui ngồi im re, một phần vì xấu hổ không dám lên, một phần vì chỉ mang theo tờ 50 và 100 đô thì có mà tỉ Phú mới dám bo tờ lớn như thế.

Trước khi đi Mỹ, tui đã có vài chuyến xuất ngoại qua Sing, Mã và Thái, tuy nhiên đi làm việc nên cũng không có thời gian đi khám phá các sexi show ở Bangkok mà tui vẫn nghe nhiều người kể lại, do vậy tui khá lúng túng và bất ngờ về show múa cột này. Ba vị đồng hành với tui chắc cũng vậy.

Cứ tưởng ngồi im núp lùm tại bàn là yên thân. Ấy vậy mà cũng không thoát. Thấy các bàn khác đều lên bo liên tục còn bàn bọn tui nín khe thì bỗng dưng một cô da trắng tóc vàng dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên trắng toát như tòa bạch ốc rời sân khấu, lồ lộ di chuyển đến bàn chúng tui. Cô gái ấy cao trên 1,7 mét lại mang đôi guốc cao gót nữa nên phải cao đến gần 2 mét, cái cửa chính của tòa bạch ốc cứ dí ngay vào trước mặt chúng tui làm đứa nào cũng hoảng kinh né tránh. Đây mới đúng “dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” chứ thời cụ Nguyễn Du làm gì thấy một cô cao lớn như vậy để ví như một tòa thiên nhiên. Hay là cụ đã lạc lối thiên thai xuyên không đến đây rồi mới ví von hay như vậy.

Chúng tui chết trân không biết phải làm thế nào còn tòa bạch ốc thiên nhiên cứ trụ đó nhìn xuống chúng tui cười cười không chịu rời đi. May quá có một ông Tây ngồi bàn bên nhìn qua cứu giúp bằng cách lấy ra tờ 1 đô quơ quơ lên rồi ra dấu cho chúng tui cài vào dây thun trên đùi cô gái. Tui thông minh hiểu liền, vội rút ra tờ 100 đô tiền vợ đưa mang theo phòng thân quơ quơ lên lắc đầu và xổ ra một tràng tiếng Anh: we can’t do that. 

Ông Tây xổ ra một tràng tiếng Tây Ban Nha, té ra là một ông Mễ, ra dấu cho tui lên quầy đổi ra tiền lẻ. Lúc đó tui chợt nhớ ra là khi mua 4 chai bia cho cả bàn, đưa ra tờ 50 đô nhưng quên lấy lại tiền thối. Tui chạy lên quầy vừa xí lô xí là vừa rút tiền ra múa máy chân tay, nhân viên đứng quầy cũng thông minh như tui nên lấy ra 22 tờ 1 đô đưa cho tui.

Quay trở lại bàn, tui anh dũng và đĩnh đạc thò tay vào đùi tòa bạch ốc kéo sợi dây thun ra và nhét vào đó đến hai tờ 1 đô. Tòa bạch ốc thiên nhiên di động cười tươi cúi thấp xuống cám ơn chúng tui rồi di chuyển trở lại sân khấu.

Một lát sau lại có tòa thiên nhiên màu đen tuyền di chuyển đến bàn chúng tui để chờ cài tiền vào đùi.

Sau đó chúng tui đánh tan cơn sợ hãi bản năng gốc, tự động thay nhau lên sân khấu cài tiền để các tòa thiên nhiên khỏi phải xuống nữa. 

Chẳng mấy chốc chúng tui đã hào phóng bo sạch 22 tờ một đô. Thấy như vậy cũng đủ khám phá một nền nghệ thuật sân khấu lồ lộ những tòa thiên nhiên đủ màu của Mỹ rồi, chúng tui lui gót trở lại khách điếm, chui vào tư phòng đánh một giấc đến sáng.

10 g sáng chúng tui được xe đưa đến văn phòng bộ ngoại giao để được chính thức đón tiếp và lên kế hoạch đi thăm nước Mỹ.

HUỲNH NGỌC CHÊNH. 

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2025

Phương xa: HAI ÔNG MỘT BÀ - Sưu tầm.

 



HAI ÔNG MỘT BÀ.

(Quản lý thời gian bậc thầy, nhân đôi...

Bạn có tin không,người phụ nữ cùng lúc sở hữu 2 ông chồng hơn 20 năm, mà không ông nào biết mình bị "share" cả?)

Anaïs Nin (1903-1977) – nữ nhà văn nổi tiếng thế kỷ 20, đúng chuẩn "bậc thầy quản lý thời gian" và chắc chắn cũng là "CEO ngành logistics tình cảm"

Bà cưới Hugh Parker Guiler từ năm 1923. Hugh là nhân viên ngân hàng, cung cấp tiền bạc để bà thoải mái viết lách, du lịch, và sống như nữ hoàng. Suốt mấy chục năm, Hugh tin chắc mình là trung tâm vũ trụ tình cảm của vợ.

Nhưng plot twist tới cuối thập niên 1940: Nin gặp Rupert Pole – một cựu diễn viên đẹp trai, trẻ hơn bà 16 tuổi. Ở bên Rupert, Nin bảo mình như được “reset thanh xuân”. Năm 1955, bà… cưới luôn Rupert. Vấn đề là: chưa ly dị Hugh.

Kể từ đó, Nin “chạy show” giữa hai thành phố: Hugh ở New York, Rupert ở Los Angeles. Hai căn hộ riêng, hai số điện thoại riêng, hai ông chồng riêng – nhưng lịch trình của bà thì kín không kẽ hở, như đang chơi trò xếp lịch Google Calendar cấp độ siêu nhân.

Điều kỳ lạ: Cả Hugh lẫn Rupert đều nghĩ mình là chồng duy nhất… cho đến khi Nin mất năm 1977, bí mật mới lộ ra. 

Và thế là người đời gọi bà là “bậc thầy nhân đôi hạnh phúc, nhân ba drama”.

SƯU TẦM. 

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2025

Phương xa : EM ĐÃ TỎA SÁNG - Sưu tầm.

 


EM ĐÃ TỎA SÁNG 

“Ngày xưa, người ta giấu em trong những buổi tiệc gia đình vì cho rằng em là nỗi xấu hổ… hôm nay, chính em là người nuôi sống cả nhà.”

Khi còn nhỏ, María đã cảm thấy có điều gì đó không ổn mỗi khi nhà có khách. Cha mẹ thường bảo em vào phòng, tự chơi một mình, rằng “người lớn cần nói chuyện quan trọng”.

Từ cầu thang, em nghe thấy tiếng cười, tiếng trò chuyện từ phòng ăn, mà chẳng hiểu vì sao mình không được ngồi cùng.

— “Thế này sẽ tốt hơn, con yêu,” mẹ nói, tránh ánh mắt của em. — “Ở đây nhé, mẹ sẽ mang bánh cho con sau.”

Nhưng María đâu phải ngây thơ. Em nghe thấy những lời xì xào, những câu bị cắt ngang khi nghĩ rằng em không nghe được:

“Thật tội, gánh nặng quá.”

“Một đứa bé xinh xắn như thế mà…”

“Thôi thì đừng để nó ra ngoài nhiều thì hơn, phải không?”

Năm tháng trôi đi, María lớn lên. Trong khi các anh chị vào đại học dễ dàng, em phải nỗ lực gấp đôi cho từng thành tích nhỏ. Em học đọc dù bị bạn bè chế giễu. Em tốt nghiệp trung học, trong khi nhiều người ngờ rằng em sẽ bỏ dở. Rồi em đăng ký lớp học làm bánh — thứ mà cả nhà cho là “phí thời gian”.

— “Mệt làm gì, María?” — anh trai nói. — “Bọn anh sẽ luôn giúp em mà.”

Nhưng María có dự định riêng.

25 tuổi, em mở một tiệm bánh nhỏ ngay trong bếp gia đình. Những chiếc bánh hoàn hảo, được nhào nặn bằng kiên nhẫn và sự chăm chút mà chỉ em có. Dần dần, khách đặt hàng nhiều hơn. Rồi em mở cửa hàng đầu tiên, thuê hai nhân viên, rồi năm.

Giờ đây, 32 tuổi, María là chủ của ba cửa tiệm “Dulces María” trong thành phố. Các anh chị “danh giá” của em nay vẫn chật vật với việc làm bấp bênh. Cha em sống bằng lương hưu ít ỏi. Mẹ em cần thuốc men đắt tiền.

Cả nhà quay sang nhờ María.

— “María, em giúp chị trả tiền thuê nhà tháng này nhé?”

— “María, bố cần đi khám tim.”

— “María, xe anh hỏng rồi, anh cần sửa để đi xin việc…”

Và María giúp. Lúc nào cũng giúp. Không phải vì oán hận — nỗi buồn ấy em đã vượt qua — mà vì em hiểu một điều quan trọng: sức mạnh thật sự không nằm ở việc che giấu sự khác biệt, mà ở chỗ biết rằng chính sự khác biệt ấy có thể thay đổi tất cả.

Chủ nhật, cả gia đình tụ họp trong NGÔI NHÀ CỦA MARÍA — ngôi nhà lớn nhất, mua từ công sức của em. María nhìn lũ cháu chạy nhảy trong vườn, và nhớ lại bé gái ngày nào ngồi trên cầu thang, nghe tiếng cười vọng ra từ xa.

— “Dì María, dì dạy tụi con làm bánh quy nhé?” — mấy đứa cháu reo lên.

Em mỉm cười:

— “Tất nhiên rồi. Lại đây, bếp dì lúc nào cũng đủ chỗ cho tất cả.”

Bởi María đã học được rằng tình yêu thật sự không giấu đi, mà mở rộng vòng tay. Và đôi khi, những người mà thế giới nghĩ là yếu đuối lại chính là những người mạnh mẽ nhất.

Ngay lối vào ngôi nhà chính, treo hai bức ảnh: một là María hồi bé, đôi mắt sáng ngời, nụ cười hồn nhiên; bức kia là tờ hóa đơn đầu tiên em xuất ra với tư cách một doanh nhân.

Hai hình ảnh, một câu chuyện: câu chuyện của một người phụ nữ không bao giờ bỏ cuộc, biến nỗi đau thành đam mê, và chứng minh rằng giá trị thật sự không nằm ở kỳ vọng của người khác, mà ở những gì ta chọn để làm với cuộc đời mình.

Giờ đây, María không còn bị giấu đi.

Em đã tỏa sáng. 🌟

SƯU TẦM. 

Chuyện xưa : CHỮ QUỐC NGỮ - Sưu tầm.

 



(Một lá đơn kiện năm 1897 viết bằng chữ Quốc ngữ, do một người tên Quách Ấu sống ở tổng Thạnh An, thôn Xa Man (nay là Sóc Trăng)


Tổng thạnh an. 

Thôn xa man. 

Dân ban Triều Châu: Quách Ấu 

Xin bẩm quan lớn được hiểu: hồi ngày mùng 2 tháng 2 năm bính thân. Tên Hỉa Ý, tên Thiên Bửu và tên Phụng Tống cùng ngụ làng Sa man có vay của tôi 120 đồng. Giao ước mãn năm thì trả 460 giạ lúa, sẽ trừ hết số bạc ấy. Có tên Kiên Đại làm giấy cho tôi.

Mà nay, 3 tên ấy không chịu trả lúa cho tôi. Nên tôi đến xin quan lớn bắt 3 tên đó tới Toà, xử nó trả 460 giạ lúa. Bằng nó không có trả xin phát mãi tài sản chúng. Nếu không có gia sản thì xin quan lớn bỏ tù nó!.

Kính đơn. 

Ngày 13 tháng 2 năm 1897. 

Quách Ấu

__________________

Nguồn: Fb Hien Chi Vo

Nguồn tải: Lịch sử Vietnam qua ảnh

Thứ Hai, 1 tháng 9, 2025

Ngẫm : TẠI SAO? - Sưu tầm.

 


TẠI SAO? 

 Tại sao Đại bàng không bao giờ đánh nhau với Quạ: Bài học về sự trưởng thành và thành công

Bạn có biết? Loài chim duy nhất dám tấn công đại bàng là quạ.

Nhưng bí mật ở đây là—đại bàng không bao giờ đánh trả. Thay vào đó, nó dạy cho chúng ta một bài học sâu sắc về cuộc sống.

Đây là lý do:

Những sự xao nhãng không ngừng nghỉ.

Con quạ táo bạo đậu trên lưng đại bàng, mổ vào cổ nó. Phiền phức. Không ngừng. Làm mất tập trung.

Đại bàng không lãng phí năng lượng.

Không vỗ cánh dữ dội. Không chiến đấu. Không trả đũa. Đại bàng chọn một điều: bay lên cao hơn.

Độ cao sẽ loại bỏ kẻ thù.

Khi đại bàng bay lên, không khí loãng dần. Quạ không thể chịu đựng được—nó thở hổn hển, yếu đi và rơi xuống.

Chiến thắng nhờ độ cao, không phải đối đầu.

Đại bàng không cần tấn công. Nó chỉ đơn giản là bay lên. Và quạ tự đánh bại chính mình.

Bài học cuộc sống:

Hãy để "bầy quạ" buôn chuyện, chỉ trích hay làm phiền bạn. Đừng lãng phí thời gian vào những điều tiêu cực. Thay vào đó, hãy tập trung vào phát triển bản thân, vươn lên và nâng tầm.

Bởi vì sự thật là:

Không phải ai cũng có thể theo bạn đến những tầm cao mới. Sự trưởng thành của bạn sẽ át đi tiếng ồn ào của họ.

 Đừng chống trả. Hãy bay lên.

SƯU TẦM.

Suy ngẫm : MẸ ĐANG GIÀ ĐI... - Sưu tầm.

 



MẸ ĐANG GIÀ ĐI... 

Đừng quá khắt khe với mẹ… vì mẹ cũng đang già đi

Và đôi khi, chỉ một ánh nhìn vô tình cũng có thể làm trái tim mẹ chùng xuống.

Chúng ta thường nghĩ mẹ sẽ luôn ở đó – như một điều hiển nhiên. Luôn dọn dẹp sau bữa ăn, luôn mở cửa khi ta về muộn, luôn nhắn hỏi han mỗi lần trời chuyển mưa. Nhưng theo thời gian, mẹ không còn đủ sức để làm tất cả những điều “luôn luôn” ấy nữa.

Mẹ đang già.

Già theo cách lưng mẹ còng xuống nhẹ hơn mỗi ngày.

Già trong từng bước chân chậm rãi giữa buổi chiều lặng gió.

Già theo những vết đồi mồi bắt đầu xuất hiện trên đôi bàn tay từng nâng ta lớn lên bằng cả một đời hy sinh.

Chúng ta lớn lên với những giấc mơ, còn mẹ thì trưởng thành cùng những đánh đổi. Có những hy vọng mẹ chưa từng nói, có những giấc mơ mẹ đã lặng lẽ gấp lại từ lúc ta cất tiếng khóc đầu đời. Mẹ từng là một thiếu nữ biết mơ mộng, từng muốn đi xa, từng nghĩ đến việc học một điều gì đó chỉ để vui... nhưng rồi, mẹ trở thành người phụ nữ của gia đình, vì yêu thương mà gác lại thanh xuân.

Nhiều người trong chúng ta từng giận mẹ vì mẹ quá bảo bọc, quá khắt khe, quá hay hỏi han. Nhưng ít ai tự hỏi: “Mẹ hỏi nhiều vậy là vì sao?” Có thể là vì mẹ không còn biết cách nào để kết nối với chúng ta nữa, ngoài việc hỏi những điều tưởng chừng vô nghĩa. Có thể là vì mẹ sợ… sẽ không còn đủ thời gian để hỏi thêm một lần sau.

Mẹ cũng là con gái nhỏ của ai đó. Người từng nắm tay mẹ đi chợ ngày xưa có thể giờ đã chẳng còn, hoặc đôi lúc mẹ chỉ còn gặp người ấy trong mơ. Vậy nên, khi mẹ nhìn ta, có lẽ mẹ cũng đang nhìn thấy hình ảnh mình thuở bé – ngây thơ, yếu đuối và cần chở che. Mẹ thương ta không chỉ vì ta là con, mà còn vì mẹ biết mất đi người mình yêu quý là nỗi trống trải chẳng thể lấp đầy.

Rồi cũng sẽ đến ngày ta phải đối diện với những ký ức không thể lặp lại: một cái nắm tay khi qua đường, một tiếng mắng yêu khi ta lười ăn, một bữa cơm có món canh mẹ nấu… mà không ai khác có thể làm giống y như mẹ. Những điều nhỏ bé, đôi khi khiến ta khó chịu, đến một lúc nào đó sẽ trở thành điều ta nhớ nhất.

Đừng đợi đến lúc mẹ không còn nghe thấy lời “xin lỗi” hay “con thương mẹ” mới thốt ra.

Đừng đợi đến khi mẹ đã không còn nhớ nổi tên ta, ta mới bắt đầu nhớ những ngày có mẹ.

Đừng để đến khi mẹ ngủ một giấc rất dài rồi, mới bắt đầu rơi nước mắt vì những ngày chưa từng lắng nghe.

Hãy yêu mẹ bằng một trái tim tỉnh thức.

Hãy nhẹ nhàng hơn khi mẹ vụng về.

Kiên nhẫn hơn khi mẹ nói lặp.

Và quan tâm nhiều hơn khi mẹ bắt đầu “quên bớt” – vì đó không phải là do mẹ cố tình, mà vì thời gian đang dần xóa nhòa những điều mẹ từng nhớ rất rõ.

Mẹ đang già đi – như một bông hoa cuối mùa, mong manh nhưng vẫn toả hương bằng tất cả những gì còn lại.

Nếu hôm nay ta vẫn còn có thể gọi “Mẹ ơi” – thì đó là một điều kỳ diệu.

Đừng chờ đến khi mùa xuân trôi qua rồi mới tiếc những cánh hoa chưa kịp ngắm.

Hãy thương mẹ, bây giờ…

Vì không phải ai cũng còn mẹ để được thương.

SƯU TẦM. 

Cuộc sống : CÔNG LAO TỪ MẪU...! - Sưu tầm.

 



CÔNG LAO TỪ MẪU...!

Thằng Tâm học chung tôi từ lớp Năm đến lớp Nhất. Ba nó t.ử trận khi nó sanh ra khi được gần một tuổi.

Má nó phải làm nghề bán cá để nuôi con thơ...!

Quanh năm tảo tần kiếm tiền nuôi con. Mùi hơi cá bám vào làn da, mái tóc, quần áo... khiến má ngại đứng gần mọi người trong xóm...!

Đến mùa nước nổi Má nó bán cá linh, cá trám, cá mè...

Khi mưa vơi dần, ruộng đồng nước rút, thì bán cua đồng, cá rô, sặc, cá trê, lóc, ếch nhái...

Có những khi bán ế, loài thủy sinh mau chết dễ sình ươn nên má nó phải chạy xách giỏ, đội cái thau cá đi nhanh, rao bán khắp xóm. Có lần má đi ngang trước cổng trường Tiểu học nơi tôi và thằng Tâm học, lại đúng giờ ra chơi...Thấy Tâm đứng dưới gốc phượng gần hàng rào, má nó mừng lắm, ngoắc nó đến, vuốt tóc và cho gói xôi đậu xanh có mè và những sợi dừa rắc lên trên...

Thằng Tâm vừa mừng vừa... tủi (trẻ con mà) vì sợ tụi bạn “khinh”...!

-Má mầy bán cá hả Tâm...?

-Má mầy đen quá..!

-Tội nghiệp má mầy vất vả thật...!

Nhiều câu nói làm cho nó nhói lòng...!

Tôi cũng hiểu chuyện nên nắm tay nó dẫn đi chỗ khác...! Thời gian trôi đi nhanh, Tâm vào Đại học năm 1979, có dịp gặp lại nó, nhận ra ngay vì trên trán nó có cái bớt đỏ tròn như “cái mộc” dù đã lợt hơn xưa. Mấy năm học xa, Tâm vẫn không cho bạn bè mới biết má nó vẫn còn bán cá như xưa..! Chỉ duy nhất là tôi và bạn gái chung trường... Cách nay khoảng hơn mười năm, có dịp về Cần Thơ, gặp lại Tâm ở Bến Ninh Kiều với bà xã và hai con đang ngồi hai cái ghế đá... Mừng lắm...! Bạn cũ mấy chục năm gặp lại, bao nhiêu chuyện cần hỏi thăm nhau...! Nhìn ra dòng sông Cái Răng giữa sóng nước lăn tăn, nó nhớ má, nhớ chuyện ngày xưa, lòng buồn rưng rưng nhắc lại những ngày còn thơ má đội thau, xách giỏ cá đi bán...! Tâm tiếc thương vì chưa trả trọn chữ hiếu với Má vì đã đi xa mãi..!

SƯU TẦM. 

Thơ : THU NHỚ - Kiên Duyên.

 


THU NHỚ

Vào thu rồi có phải vậy không em?

Thấy ngoài hiên bên thềm buông nắng nhạt...

Ở trong này gió ào qua chốc lát...

Thạch thảo rơi ngào ngạt chút hương nồng..


Hà Nội buồn bên góc phố rêu phong?

Ngọn heo may chơi vơi lòng thấy vắng...

Cổ ngư xưa chia tay chiều bình lặng

Tan trường về đâu áo trắng người thương


Vạt sương đêm có làm ướt môi hường

Và ô cửa bên đường buông tóc lạ

Chiếc hôn đầu thuở sân trường ghế đá

Thu đợi chờ hay thu đã sang sông?

KIÊN DUYÊN. 

Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2025

Cuộc sống : KHÔNG LÀM GÌ Ở NHÀ - Sưu tầm.

 


KHÔNG LÀM GÌ Ở NHÀ. 

Tượng đài của “người phụ nữ không làm gì ở nhà”

Người ta vẫn hay nói: “Ở nhà thì có gì đâu mà bận, chỉ ăn rồi lo mấy việc vặt vãnh thôi.” Nhưng sự thật là, trên đôi vai thầm lặng của người phụ nữ, có cả một thế giới – cơm nước, giặt giũ, chăm con, lo toan từng chi tiết nhỏ nhặt nhất để cả gia đình được bình yên.

Bức tượng này khắc họa một cách chân thực đến xót xa: trên lưng người mẹ là cả núi đồ đạc, vật dụng, trách nhiệm, còn dưới chân là những đứa con đang níu lấy bà. Không tiếng than, không lời kêu ca – chỉ có dáng lưng còng xuống và ánh mắt nặng trĩu.

Đây chính là hình ảnh của “lao động vô hình” – thứ công việc không có bảng lương, không chức danh, chẳng ai khen ngợi, nhưng lại là nền móng giữ cho gia đình và xã hội vận hành.

Ta thường dựng tượng đài để tưởng nhớ anh hùng, nhưng thử hỏi: có bao nhiêu “anh hùng thầm lặng” ngay trong mái nhà đã bao lần quên đi tuổi xuân, quên đi giấc mơ của chính mình, chỉ để dành chỗ cho hạnh phúc của người khác?

Đừng đợi đến khi những tượng đài như thế này được dựng lên mới cúi đầu thừa nhận. Hãy học cách nhìn thấy, trân trọng và sẻ chia ngay từ hôm nay. Bởi sự công bằng không phải là món quà, mà là cách chúng ta trả lại giá trị xứng đáng cho những người đã hy sinh quá nhiều mà chưa bao giờ đòi hỏi.

Đôi khi, điều lớn lao nhất ta có thể làm, chỉ đơn giản là nói: “Cảm ơn, vì tất cả những gì anh-chị đã làm.”

SƯU TẦM. 

Hồi ức : BỮA CƠM QUÊ - Sưu tầm.

 



BỮA CƠM QUÊ.

Ngày ấy, gần nhà có nhà máy phi lê cá basa. Mẹ thường hay mua ức cá về kho tiêu.

Ức cá basa thì bảy phần là mỡ, chỉ ba phần là thịt, nhưng chính cái mỡ ấy khi kho lên lại tươm ra, vàng óng, thơm lừng. Ăn lúc còn nóng mới ngon, chỉ cần cắn một miếng thôi là vị béo ngậy tan ra trong miệng, quyện cùng vị tiêu cay nồng, đậm đà khó quên.

Giờ thì lâu lâu mới thấy người ta bán ức cá. Nó mua về, cũng kho tiêu, chỉ để tìm lại hương vị xa xưa ấy.

Bên ánh đèn dầu vàng vọt, mâm cơm quê ngày nào giản dị mà ấm áp, như ôm trọn cả ký ức tuổi thơ. Ơ ức cá kho tiêu dậy mùi thơm, từng miếng cá béo bùi, cay cay, mằn mặn. Bên cạnh là tô hột vịt luộc dầm nước mắm – gợi nhớ những bữa cơm vội nhưng chan chứa tình thương. Đĩa rau lang luộc xanh mướt, chấm cùng chén mắm tỏi ớt – đơn sơ mà trọn vẹn. Tất cả hòa vào không gian xưa cũ: tiếng radio rè rè, mùi khói bếp còn vương… để lại một miền ký ức không bao giờ phai.

Sưu tầm trên FB 

#khoibepvagio #mientay #buacomque

Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2025

Hồi ức : THỜI TẬN DỤNG... - Phạm Công Luận.


( Xe chạy bằng than có bình sắt lớn phía sau! )

THỜI TẬN DỤNG…

Đó là một thời kỳ lạ xuất hiện sau năm 1975 ở miền Nam vì chưa bao giờ diễn ra như vậy. Cuộc sống khó khăn ập đến, hiện diện mỗi ngày trong từng gia đình. Mọi nhu cầu đều phải co lại, chỉ còn ưu tiên ăn và mặc.

Thời đó, sợ nhất là bị trộm quần áo. Phơi đồ trên dây sát hàng rào luôn phải trông chừng không chút nào ngơi vì có thể bị móc trộm. Nhà nào có được cái quần jean từ nước ngoài gửi về mà bị mất là méo cả mặt. Loại quần này bận đến bạc phếch vẫn đẹp, rách vẫn có thể tận dụng vải để may nón, túi xách, không bỏ chút gì. Áo sơ mi bận lâu bị sờn cổ hay bị ố vàng vì mồ hôi, sẽ có người nhận lộn cổ áo lại nhìn như mới, hoặc đem nhúng vào dương giấy cho có màu xanh lơ thay vì màu vàng cũ do giặt bằng xà bông đá 65 phần dầu.

Vài cô thợ may nhận vá mông quần của khách bị rách bằng những đường chỉ tạo thành hình vuông hay tròn đồng tâm rất khéo, rất nhuyễn. Nhà nào trong nhà còn trữ đồ lính Việt Nam Cộng Hòa do cha anh để lại thì rất may mắn cho mấy cậu con trai. Quần đem sửa lại cho vừa, nhuộm đen, vừa đẹp vừa bền. Chỉ có điều bất tiện, khi giặt phải để riêng, nếu không màu nhuộm sẽ thôi ra quần áo khác, và khi ủi xong phải lau mặt bàn ủi cho sạch màu đen.

Học trò đi học, sau khi dùng nát mấy cái cặp da, cặp giả da từ mấy năm trước của cha anh bỏ lại, giờ đi học bằng túi vải may từ vải bố. Anh nào giữ thói quen mang khăn mùi xoa trong túi quần thì nhờ người thân cắt miếng vải vuông từ lưng áo cũ, may viền bốn cạnh là có cái khăn lịch sự thỉnh thoảng móc ra chậm mồ hôi trên trán lấy le. Ai giữ được vài xấp vải xoa Pháp, tergan hay dacron là yên tâm để nếu cần đem ra may bận đám cưới, hoặc có thể bán ra mua gạo mà ăn.

Còn ăn uống thì có gì ăn nấy từ số lương thực phân phối, là bột mì, bo bo, khoai mì, khoai lang… ăn không nổi thì đem đổi gạo dù phải chịu thiệt. Mọi gia đình tìm đủ cách xoay xở cho bữa cơm gia đình. Vai trò của phụ nữ trong nhà nổi lên, khi đàn ông vắng nhà đi học tập cải tạo, hoặc thất nghiệp. 

Những người đang bước vào tuổi sáu mươi, ai cũng có câu chuyện của mình khi đã trải qua thời gian đó. Câu chuyện của anh Hùng, bạn tôi trong một buổi họp mặt khiến mọi người như trở lại thời mình mới hơn mười tuổi mà dư vị của một thời quá đậm đà không quên được.

Hùng kể căn nhà của anh ở Bà Quẹo lúc đó có tới mười ba người, ba mẹ và các con. Trong đó, chỉ có vài người anh chị của Hùng đi làm công nhân viên với lương và nhu yếu phẩm bèo bọt. Ba đang lái xe buýt thì sau 1975 bị thất nghiệp vì không còn xăng. Má bán ngoài chợ nhỏ, xoay xở đủ mọi cách để có bữa ăn cho mười ba miệng ăn. 

Chị của Hùng kể lúc ra phía Lăng Cha Cả có gặp một chị bạn hồi trung học lang thang ngoài đó bán khoai lang luộc, đi cùng một cô bạn. Chị ấy trước năm 1975 đang học đại học Luật, gia đình sống trong cư xá dành cho sĩ quan cảnh sát ở Phú Nhuận. Hai chị đó đi bán mà không ai mua, buồn tình đi ngắm chợ trời, ở đó có bán đủ thứ món của Sài Gòn tư bản lấy ra từ các nhà người Mỹ bỏ đi trước ngày 30 tháng 4, hoặc chính người trong nhà đem ra bán để đổi lấy gạo hay quần áo, có từ cái đồng hồ Nhật, Thụy Sĩ đến tủ bàn ghế, máy Akai, dĩa hát, xe đạp, dụng cụ nhà bếp… Chị ấy kể nhiều bữa phải ôm rổ khoai lang bán ế thất thểu ra về, bụng hai chị em đói meo mà không dám mua món gì để ăn.

 Nhà Hùng, má xoay đủ mọi cách để có bữa cơm tạm được cho cả nhà. Má mua đầu cá thác lác về kho với nước dừa, ngon và béo ngậy, rất hao cơm. Hôm nào chị Hai mua được đầu tôm càng về kho tàu (thân tôm để xuất khẩu) là càng tốn cơm với đám con đang lớn. May là có vườn nhà bà Năm kế bên, hôm nào thiếu thức ăn chỉ cần làm tô nước mắm kho quẹt, ra vườn hái mớ rau để chấm là đủ bữa cơm. Ngon nhất là rau càng cua, đem vô rửa sạch trộn với dấm và trứng luộc xắt khoanh mỏng. Đến Tết, nấu được nồi thịt kho thì bỏ vô nhiều đợt trứng cho thấm hết chất nước giàu đạm và béo, đến khi cạn nước mới thôi.  

Kế bên nhà của Hùng có một khoảnh vườn nhỏ của bà Năm, người trong dòng họ. Bà Năm ở xa nên nhờ ba má Hùng trông giùm khoảnh vườn này. Ở đó, má trồng bông huệ, bông vạn thọ đợi lớn đem ra chợ bán, xoay đủ kiểu để kiếm tiền lo ba bữa cơm. Ba không khỏe, các anh chị lớn đều đi làm nên không thể khai thác được miếng vườn nhiều hơn. Vườn tược trở nên hoang sơ, tối gió thổi lồng lộng vào nhà, đầy tiếng mèo hoang hơn chục con kêu gào từ đó vọng vào.

Một hôm, Hùng vừa bước vào bếp bỗng thấy cả đám mèo từ bên vườn dò dẫm bước qua gian bếp. Trong tủ bếp, má để dĩa cá cho chị Hai đi làm ca về trễ  ăn bữa cơm tối muộn. Hai ba con mèo tinh quái dùng tay khều cái chốt tủ gạc-măng-giê, mở toang cửa và lôi con cá ra thật nhanh. Hùng chạy tới thì cá đã bị mèo ngậm mang đi. 

Tối đó, ba và mấy ông anh ngồi tính toán bàn với nhau. Mấy con mèo phá quá, kêu gào, ăn vụng đủ thứ. Đang lúc khan hiếm chất đạm, thịt mèo cũng là loại thịt ăn được, thì phải tính. Thế là vài hôm sau ông anh lớn mang về một cái bẫy bằng lưới kim loại, nhìn giống bẫy chuột nhưng lớn hơn. Chỉ cần chút mồi là bắt được một con. Mấy anh em xúm lại nhổ lông, làm thịt. Món ragout, xào, rô ti… nấu bằng thịt mèo khá ngon, thịt mèo ngọt, ăn ngon khi còn nóng. Có người hàng xóm còn qua xin gan mèo về làm phá lấu ăn với bánh mì, cho con ăn chữa bệnh suyễn. 

Đợt ăn thịt mèo hoang đó diễn ra khoảng năm 1980. Anh em nhà Hùng ăn mấy đợt, lúc đầu thấy ngon miệng nhưng ăn riết cũng ngán. Nhưng nhờ vậy cả nhà đỡ hốc hác vì thiếu dinh dưỡng. Năm 1980, Hùng thi đậu vào đại học cũng nhờ ăn đủ chất, có sức thức khuya. 

Cuộc sống có lúc như vậy, nhưng khó khăn vẫn hoàn khó khăn. Một hôm, chị Hai của Hùng đi làm về đến nhà, chở phía sau poọc ba ga xe đạp của chị một cái bao rất lớn nhưng có vẻ nhẹ bổng. Mấy đứa em háo hức mở ra, ỉu xìu ngay vì trong đó chỉ là những cụm bông gòn phế phẩm xỉn màu mà chị xin ở công ty Bạch Tuyết nơi làm việc. Chị Hai mỉm cười, bảo để yên cho chị. Tối đó, chị giở tờ báo Khoa học Phổ thông mượn của ai đó, cắm cúi đọc trong ánh đèn điện leo lét của những năm thời bao cấp, may là hôm ấy điện không bị cúp. 

Cuối tuần, chị Hai lần dò sang vườn bà Năm kế bên nhà. Trên sàn xi măng, chị trải một lớp bông gòn xuống và rắc một lớp meo nấm rơm mà chị đã mua sẵn. Cứ một lớp bông gòn lại đến một lớp meo, xong dùng vải đậy lại cho kín. Đợi một thời gian, mở ra thấy một lớp như màng nhện màu trắng nổi lên là biết thành công, chỉ đợi nấm chui ra. Đến ngày rằm, chị thu hoạch nấm và đem ra chợ bán. Sau, không biết có ai chỉ, vài người thương lái từ Chợ Lớn gặp chị và đề nghị cho đến nhà chọn nấm để mua. 

Năm 1983, cả nước còn ăn độn mà chị Hai làm nấm một vốn tới sáu lời, giá một ký nấm mắc hơn một ký thịt. Nấm được người ta đưa đi bán nhiều lần, riết mà thành thương hiệu “Nấm Bà  Quẹo” một cách tự nhiên mà ai cũng biết là của chị. Bà con gần đó thấy làm ăn được quá, đến xin học nghề. Chị Hai không trồng trực tiếp nữa mà chuyển sang dạy nghề, bán meo, bán gòn. Hãng bông Bạch Tuyết biết chị Hai lấy bông gòn phế phẩm làm meo nấm, làm ăn khá nên họ chỉ bán, không cho lấy nữa. Nhờ chuyện làm nấm của chị mà cả nhà có một khoảng thời gian cả năm sống tươm tất hơn, bữa cơm đỡ ăn độn và có thịt có cá. 

Bây giờ nhớ lại, Hùng bảo có cho vàng cũng không dám ăn thịt mèo. Nhưng câu chuyện một thời như vậy, cần phải được nhớ và kể lại cho những thế hệ sau về cách cha anh họ đã tận dụng mọi cách để tồn tại, đã vượt qua khốn khó thế nào ...


Phạm Công Luận

Cuộc sống : MỘT MẨU RAO VẶT - St trên FB.

 


MỘT MẨU RAO VẶT. 

Câu chuyện này xảy ra ở Nhật Bản. Một tờ báo ở Tokyo đăng một mẩu rao giật gân về việc bán cha mẹ. Mẩu rao viết: “Bán cha mẹ: cha 68 tuổi, mẹ 66. Giá 900 yên”.

Ai đọc mẩu rao này cũng đều choáng váng. Mọi người bảo nhau: “Thật là cái thời chẳng ra gì! Đến cả cha mẹ mà cũng đem bán. Chính quyền để mắt đâu mà không thấy?” Tóm lại là cứ ồn cả lên.

Một hôm, tờ báo có mẩu rao đến tay một cặp vợ chồng trẻ mấy ngày trước vừa chôn cất cha mẹ mình bị tai nạn giao thông. Đôi trẻ mất cha mất mẹ đang rất đau buồn nên họ thấy ý muốn bán cha mẹ của những người con nào đó là một việc đại bất hiếu, bất kính. Họ kinh hoàng khi nghĩ đến sự đau đớn vật vã của bậc bố mẹ bị con đem bán. Vì thế đôi vợ chồng này quyết định sẽ mua hai ông bà và chu cấp cho họ một đời sống đầy đủ, yêu thương.

Nhưng khi họ tìm đến địa chỉ rao trên báo thì quá đỗi ngạc nhiên. Bởi trước mắt họ là một tòa nhà lộng lẫy với một sân vườn đầy hoa khoe sắc. Họ chắc mình đã nhầm nhà, nhưng cánh cửa đã mở ra và một người đàn ông lịch lãm mỉm cười chào họ.

– Chào bác, có lẽ chúng cháu nhầm nhà, nhưng theo địa chỉ trên báo thì…

– Đúng cả đấy, các cháu vào nhà đi! Người chủ nhà lạ mặt hồi hộp nói.

Ông mời khách ngồi và gọi vợ ra.

– Các cháu thấy đấy, hai bác không phải là nghèo. Nhưng hai bác không có con cái để kế thừa tài sản. Vì thế hai bác quyết định rao trên báo để tìm một người xứng đáng thừa hưởng. Hai bác biết chỉ những ai tốt bụng và nhân ái mới để ý đến mẩu rao đó. Nhưng nói thật hai bác đã bắt đầu ngờ là khó mà tìm được những người như thế… Việc hai cháu đến đây chứng tỏ hai cháu là người tốt, vì thế hai bác rất mừng được gặp các cháu.

Câu chuyện trên có thể có thật hoặc không, nhưng nó đã gửi đến cho chúng ta một thông điệp rằng: Tất cả những con người sống lương thiện đều sẽ gặp may mắn, dù sớm hay muộn. Khi chúng ta trao đi yêu thương, điều được nhận lại vẫn sẽ là yêu thương. Cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ mà ngay cả những người thông minh nhất cũng không thể ngờ trước.

(Không rõ tác giả)

Phương xa : SỐNG Ở TRÊN ĐỜI - St trên FB.

 



SỐNG Ở TRÊN ĐỜI. 

Ở một thị trấn nhỏ bang Iowa, Mỹ, có một người đàn ông giản dị tên là Dale Schroeder. Ông không phải doanh nhân giàu có, không phải người nổi tiếng, càng không phải nhà từ thiện được truyền thông săn đón. Ông chỉ là một người thợ mộc bình thường, làm việc cho chỉ một công ty xây dựng trong suốt 67 năm. Ông sống đơn giản đến mức chỉ có hai bộ quần áo chỉnh tề và 2 cái quần Jean, một bộ để đi làm, và một bộ để đi nhà thờ vào Chủ nhật. Ông sống lặng lẽ một mình không có vợ con, không có gia đình thân thích, và lái một chiếc xe cũ kỹ suốt bao năm.

Nhưng đến khi Dale qua đời vào năm 2005, cả thế giới mới ngỡ ngàng.

Trước lúc mất, Dale đến gặp luật sư của mình và nói:

“Tôi không có con cái. Tôi muốn giúp những đứa trẻ nghèo ở quê hương mình, những đứa trẻ thông minh, có ước mơ được học đại học, nhưng không đủ tiền.”

Luật sư hỏi lại ông:

– “Ông có bao nhiêu tiền để làm việc này?”

Ông trả lời một cách nhẹ nhàng:

– “À… khoảng 3 triệu đô la.”

Không ai hiểu Dale đã dành dụm bằng cách nào. Một người thợ mộc, sống giản dị, không tiêu xài gì cho bản thân, âm thầm tiết kiệm suốt cả cuộc đời, và để lại một gia tài khổng lồ chỉ với một mục đích: cho đi.

Số tiền ấy được sử dụng để lập một quỹ học bổng giúp sinh viên nghèo bang Iowa đi học đại học. Tổng cộng, 33 sinh viên đã được thay đổi cuộc đời. Họ gọi nhau là “Những đứa con của Dale.”

Trong một buổi họp mặt để tưởng nhớ ông, một trong những người nhận học bổng xúc động nói:

“Nếu không có Dale, tôi không biết giờ mình đang ở đâu. Ông ấy chưa từng gặp tôi, chưa từng biết tôi là ai, nhưng ông đã tin tưởng và cho tôi cơ hội sống một cuộc đời khác.”

Ngày nay, trong số những “đứa con” của Dale, có bác sĩ, giáo viên, kỹ sư, nhà tâm lý học, y tá… Họ không chỉ nhận được cơ hội học tập, mà còn truyền tiếp ngọn lửa nhân ái ấy. Nhiều người trong số họ đã hứa sẽ giúp đỡ những người khác, như cách Dale đã giúp họ – không cần được biết ơn, không cần danh tiếng.

Ông không nổi tiếng khi sống, nhưng trở thành huyền thoại sau khi mất.

“Bạn không cần phải là người giàu để cho đi. Bạn chỉ cần có trái tim.” – Dale Schroeder, người đàn ông giản dị đã dạy cả thế giới bài học về lòng nhân ái.

SƯU TẦM. 

Thơ : THÁNG 7 VỀ - Vũ Tuấn.

 



THÁNG 7 VỀ 

Tháng bẩy về em có biết không em?

Trời không nắng,  buồn như em ngày ấy

Mưa cứ rơi sao mà dai dẳng vậy?

Như mắt ai buồn , lệ ướt tháng năm.


Tháng bẩy về trong kí ức xa xăm

Trên phố xưa, em của thời con gái

Tuổi đôi mươi mối tình đầu vụng dại

Mưa ướt mềm trên lối nhỏ ta đi.


Tháng bẩy về ta hát khúc tình si

Lòng chợt thương Ngưu Lang và Chức Nữ 

Nhớ không em dưới hàng cây lá rủ ?

Ta làm cầu ô thước bắc qua sông


Nhớ chuyện xưa nước mắt chảy thành dòng

Đâu sông Ngân Hà sao tình ta chia cắt?

Bầy quạ ơi nối hai hàng nước mắt

Cho ta về tìm lại dấu yêu xưa.


Tháng bẩy buồn trời đổ cơn mưa

Nghĩ về nhau với nỗi niềm thương nhớ

Tại mưa ngâu cho tình ta dang dở? 

Để bây giờ da diết một niềm đau.

   VŨ TUẤN. 

Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025

Tranh vui : IM LẶNG LÀ VÀNG - Sưu tầm trên FB.

 IM LẶNG LÀ VÀNG !!!




Nét xưa : ÁO DÀI VIỆT NAM - Trương Gia Liêm.

 



NÉT XƯA. 

Tấm hình này được đăng trên tuần báo Ngày Nay (tiền thân là báo Phong Hóa) của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, số đầu tiên ra ngày 30/1/1935, với lời chú thích: “Cô Nguyễn Thị Hậu – người thiếu nữ đầu tiên mặc quần áo lối mới kiểu Lemur”....

TRƯƠNG GIA LIÊM (FB)

Tản mạn : XUYÊN TẠC BÓP MÉO... - Nguyễn - Chương Mt.-

 



XUYÊN TẠC BÓP MÉO HAY YẾU KÉM VỀ LỊCH SỬ?


   Không ít người trẻ thời nay được dạy sử kiểu này: "Vua Bảo Đại vào tháng 3-1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?). Cái này kêu bằng "Giết sử" chớ viết sử gì nổi!

   Phải nói về danh xưng "Ba miền", theo nghĩa địa lý hiện nay (Nam, Trung, Bắc) cho có đầu có đũa cái đã.

   Hồi thời vua Lê Thánh Tôn, nước Việt mới tới Phú Yên, nghĩa là chỉ có miền Bắc, và miền Trung dở dang (chưa trọn miền Trung), thành thử không có "ba miền".

   Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Đàng Trong mở rộng đến Cà Mau nhưng hùng cứ một cõi, không ăn nhập với Đàng Ngoài, thành thử cũng không thành "ba miền".

   Chỉ sau khi vua Gia Long thống nhứt sơn hà thì lãnh thổ chữ S mới xôm tụ, đề huề gồm đủ Nam-Trung-Bắc.

    Năm 1808, vua Gia Long định lại bờ cõi mà phân địa giới khu vực, ngoài khu vực kinh thành ở miền trung, chia làm hai miền bắc nam: Khu vực phía bắc gọi là "Bắc Thành", khu vực phía Nam gọi là "Gia Định Thành", bao trùm toàn miền nam gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, An Giang).

    Đến cột mốc "1832" mới thực đáng chú ý hơn.

    Chú ý thứ nhứt: Vua Minh Mạng phân ranh địa giới thành các Tỉnh, và khái niệm "Tỉnh" được xài cho đến hiện nay (không còn xài cách gọi "Đạo", "Dinh", "Trấn"... của bao nhiêu đời xửa xưa gì nữa)! 

   Suốt 187 năm, tính cho đến năm 2019, địa giới mỗi Tỉnh mỗi thời - dĩ nhiên - có thay đổi, nhập vào, tách ra, đổi tên gọi búa xua.

    Chú ý thứ nhì: Dưới thời vua Minh Mạng xuất hiện cách gọi ba miền là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, hồi đó gọi tỉ mỉ hơn: Hữu Kỳ, Trực Kỳ nằm nơi kinh đô, và Tả Kỳ - gộp chung lại là "Trung Kỳ", và Nam Kỳ là toàn miền nam gồm 6 tỉnh, nên quen gọi "Nam Kỳ Lục tỉnh": Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

   Sử sách rõ rành như vậy; Vậy mà bây giờ nảy nòi lối viết bừa phứa. Đó, "danh xưng Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ xuất hiện dưới thời Pháp thuộc, cách gọi này mang dấu ấn thuộc địa", viết bừa như vậy mà cũng viết cho bằng được!?

   Tây vào VN, họ định danh ba miền bằng tiếng Tây "Tonkin", "Annam", "Cochinchine", làm gì có miếng tiếng Việt nào ở trỏng! Trong khi đó, người Việt vẫn giữ cách gọi chính thức của tiền nhân chúng ta - bằng tiếng Việt rành rành là "Bắc Kỳ", "Trung Kỳ", "Nam Kỳ" - suốt hơn một thế kỷ, từ năm 1832 đến năm 1945.

   Viết sử sai bét như trên, của ông bà mình đem gán cho tây, cầm bằng GIẾT SỬ chớ còn gì nữa!

   Giết kiểu sau đây còn ghê hơn nữa: "Vua Bảo Đại vào tháng 3-1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?).

   Cách gọi Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ là do tiền nhân triều Nguyễn đặt ra, nói vua Bảo Đại "bỏ đi vì nó mang tính kỳ thị vùng miền" thì có khác nào vua Bảo Đại chửi tông tổ chính mình? Cái này gọi là chiêu trò "gắp lửa bỏ tay người"!

   Theo hồi ký của cụ Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại vào tháng 3-1945 có đổi sang gọi "Bộ" thay vì "Kỳ", nhưng không phải với lý do của giới "giết sử" bịa ra.

    Nhựt Bổn sau khi đảo chính Pháp, cầm trịch, và nghe nói thống sứ Nhựt Nashimura là người đổi CÁCH GỌI TRUYỀN THỐNG "Kỳ (Bắc, Trung, Nam)" của người Việt sang cách gọi "Bộ (Bắc, Trung, Nam)" hết ráo.

   Người Nhựt, sau đó, chấp thuận cho vua Bảo Đại tuyên cáo độc lập và thành lập chánh phủ riêng của người VN, tức chánh phủ Trần Trọng Kim. Chánh phủ của vua Bảo Đại vuốt mặt cũng phải nể mũi, tạm thời không đổi "Bộ" trở lại thành "Kỳ" của tiền nhân, trong khi đó dồn công sức thực hiện một số cải cách, chẳng hạn, trong giáo dục...

   Chánh phủ này chỉ hiện hữu mấy tháng ngắn ngủi, rồi dứt. Nhà nước VNDCCH, sau đó, sử dụng cách gọi "Bộ", nghe riết thành quen.

   Quen đến mức nhiều người thời nay cứ tưởng "Nam Bộ" là cách gọi... có từ thuở mở cõi miền Nam. Tưởng vậy là tưởng bở. Hai chữ "Nam Bộ" xuất hiện mới được mấy chục năm thôi giữa dòng lịch sử dài hơn ba trăm năm của đất phương Nam (với nhiều tên gọi về vùng đất này, trong đó danh xưng "Nam Kỳ lục tỉnh" có tuổi đời cách đây 187 năm, gần hai thế kỷ rồi đa).

   Thành thử nếu viết: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người Nam Bộ lúc bấy giờ", xét thiệt nghiêm túc thì câu viết như vậy là... trật. Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu sống khôn thác thiêng, nếu cụ thử ghé về dương gian ắt cụ phải giật mình, "Bây viết Nam Bộ là cái giống gì? Thuở sanh tiền, ta chớ hề nghe nói tới chữ đó. Nó... nằm ở đâu?". Nên nhớ: Cụ đồ Chiểu qua đời năm 1888, bấy giờ là Nam Kỳ, mãi 57 năm sau mới nảy nòi ra tên gọi "Nam Bộ".

   Viết cho đàng hoàng, cho tử tế, nên là: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người NAM KỲ lục tỉnh lúc bấy giờ" (rồi chú thích "nay gọi là Nam Bộ").

   Đặt cách gọi của giới làm chánh trị đời sau trùm lên đầu cách gọi của tiền nhân, có khác nào con đẻ ra cha, cháu đẻ ra ông!

Nguyễn - Chương Mt.

Thơ : NGÀY XƯA CỦA TÔI ƠI - hathuthuy.




 NGÀY XƯA CỦA TÔI ƠI!

Ngày xưa...Tan học về 

Qua đường đê quanh co

Tím màu hoa mắc cỡ

Đồng xanh trắng cánh cò.

Cỏ may ghim vạt áo 

Nhặt đầy tay vẫn còn 

Tung tăng đàn chim sáo 

Trên bờ cỏ lao xao

Lũy tre làng xào xạc

Tim tím giậu mồng tơi 

Quanh bờ ao gió hát 

Gà cục tác ổ rơm...

Giờ...Cỏ may chẳng còn

Đường bê tông thẳng tắp 

Chim hết chỗ véo von

Nhớ vườn cây đã mất

Áo dài chẳng còn bay 

Trên đường đê loang nắng

Tìm đâu ra luống cày 

Dưới chân trâu cần mẫn?

hathuthuy