Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

Thơ: GIÁ CỦA CHIẾN TRANH - Thơ Và Tình.

 


 GIÁ CỦA CHIẾN TRANH 

Giá của chiến tranh... nào ai đã đếm đong

Và có lẽ chẳng bao giờ đong đếm nỗi

Bao nhiêu cái chết của người vô tội

Có đáng để Các Ngài dùng đến chiến tranh...!


Giá của chiến tranh... là cha mất con là em mất anh

Là vợ mất chồng là con mất mẹ

Là những đứa trẻ mồ côi là những tấm thân tàn phế

Những làng thôn những thành phố bị san vùi


Giá của chiến tranh... là kéo nhân loại giật lùi

Bom đạn chôn vùi biết bao làng mạc

Những thành phố mộng mơ những đồng hoa bát ngát

Bỗng chốc thành màu đất nâu


Giá của chiến tranh...  là dòng máu chảy chẳng biết về đâu

Chảy vào túi tham quyền tham tiền không đáy

Vào kho bạc chưa bao giờ che đậy

Của những lái buôn vũ khí giết người...!


Giá của chiến tranh... không chín cũng mười

Là quá đắt chẳng ai bù đắp nổi

Kẻ có tội và người vô tội

Đều là nạn nhân chiến tranh


Hãy xây dựng thế giới... chung một màu xanh

Loại bỏ hết mọi cuộc chiến tranh xâm lược

Một thế giới mà loài người mơ ước

Ở đó Công lý được tôn vinh.

THƠ VÀ TÌNH. 

30/4/2025 (Erneut posten)

Tản mạn : ĐẤT ÔM ANH... - Mai Bá Kiếm (FB)

 




ĐẤT ÔM ANH ĐƯA VỀ CỘI NGUỒN.


Mỗi năm cứ vào dịp 30/4, tôi, Khang (Không quân) và Trung (Bộ binh) rủ nhau đi thắp nhang ở Nghĩa trang Quân đội Biên hoà (năm 2006 đổi tên thành Nghĩa trang nhân dân Bình An). Trước tiên chúng tôi thắp nhang ở Nghĩa dũng đài, sau đó thắp nhang từng khu mộ đặt tên theo mẫu tự (năm sau thắp nhang ở khu mộ khác). Năm nay, tôi điện Khang và Trung đều từ chối vì bận, tôi rủ đứa em tên Kim, chẳng liên quan "bên thua cuộc" nhưng sẵn lòng đi viếng.

Sở dĩ tôi nặng lòng với các anh đã nằm xuống tại nghĩa trang này, vì tôi có hai ngày gác linh cữu Châu Minh Nhạn, bạn đồng khóa 3/72 Thủ Đức. Số là tháng 11/1972, khóa 3/72 dừng huấn luyện, đi về các chi khu tuyên tuyền Hiệp định Paris. Nhạn về một chi khu ở miền Tây, bị du kích phục kích, bắn chết. Tôi và các bạn chờ chuyển sang Không quân lên Nghĩa trang gác linh cữu Nhạn trong 2 ngày. Hai người bồng súng đứng ở đầu hòm gác 1 tiếng. Sau giờ gác, tôi tò mò đi xem "quy trình công nghệ chôn cất tử sĩ": Kế khu tử sĩ đường (nơi quàn các quan tài) có sân đáp trực thăng. Hôm đó đầu tháng 12/1972, chiếc trực thăng tải thương chở 4 tử sĩ từ Hậu nghĩa về đáp xuống. Tôi ra xem, 4 xác được quấn poncho, buộc vào băng ca bằng dây dù. Xác bị sình như đòn bánh tét, chỗ nào buộc dây dù thì lõm xuống. Khi trực thăng cất lên, tôi thấy nó sơn màu trắng có 4 chữ thập đỏ ở trước mũi, ở hai bên hông và dưới bụng. Không biết Phạm Duy có chứng kiến cảnh này không mà ông viết rất hình tượng "Trên trực thăng sơn màu tang trắng", "poncho buồn liệm kín hồn anh".

4 tử sĩ được đưa vô phòng rửa xác. Lính nghĩa trang dùng kéo cắt quân phục, vì nó bó chặt thi hài, họ dùng chất tẩy compound, xịt nước vào nổi bọt giống bọt tuyết rửa xe. Thi hài trần truồng, sứt mẻ nhiều phần thi thể. Trung úy chỉ huy Liên đội chung sự cho biết, năm 1967 có quân y may vá chỗ mất trên cơ thể cho thân nhân bớt đau lòng, nhưng từ "Mùa hè đỏ lửa 1972" đến nay tử sĩ nhiều quá, mất đâu để vậy người ơi!

Sau rửa, xác tử sĩ được bỏ trong túi ngủ cho vào ngăn lạnh bảo quản, khi thân nhân đến đem ra tẩn liệm. Nghi thức an táng có 6 anh lính bồng súng đi hai bên ra tới huyệt, bắn chỉ thiêng 6 phát đạn. Đầu tháng 12/1972, các trận Bình Long, Kontum, Quảng Trị "mùa hè đỏ lửa" đã xong, nhưng tử sĩ vẫn đông và rất trẻ, hầu hết sinh 1954, tức 18 tuổi. Có quan tài để chân dung một cô gái, trung úy chỉ huy liên đội chung sự kể, lính tẩn liệm tìm trong bóp tử sĩ không có hình anh, mà chỉ có hình người yêu mới đem để trên đầu hòm.

VNCH tôn trọng tâm linh, nghi thức tống táng hơi bị thê lương. Bên phải khu nhà quàn có khoảng 60 quan tài tử sĩ đạo Phật, bên trái khoảng 40 quan tài tử sĩ Công giáo. Vị Linh mục cầm tô nước và một bông hồng trắng rải nước thánh lên đầu hòm và đọc kinh, hết 40 hòm chừng 40 phút. Trong khi đó, hòa thượng Thích Thanh Bối đọc kinh cúng cơm cho từng quan tài, dù đã "nhận lớp trích đoạn" mỗi quan tài chỉ mất 3 phút, 60 quan tài mất 3 tiếng, cúng cơm sáng và chiều mất 6 tiếng. Hòa thượng Thích Thanh Bối đã cúng cơm cho cả chục ngàn tử sĩ!  

Có mục kích thi hài không toàn vẹn của tử sĩ mới biết đau lòng cho những người đã nằm xuống

MAI BÁ KIẾM. 

Thơ : NGHĨ VỀ BÀI NHẠC... - Bùi Chí Vinh.

 

(Người bên tay phải là nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, bên cạnh là cố Đại úy Vũ Mạnh Hùng, nhân vật chính của bản nhạc RỪNG LÁ THẤP tử trận Tết Mậu Thân 1968)

NGHĨ VỀ BÀI NHẠC "RỪNG LÁ THẤP" CỦA 

TRẦN THIỆN THANH 


Đây là bài nhạc lính Việt Nam Cộng Hòa 

Nhưng hồi ở bộ đội chúng tôi ca liên tục 

Chúng tôi thiếu nhạc tình, nhạc nói về sự thật 

Về cuộc sống chúng tôi giữa rừng núi sình lầy 


Lời ca trách móc nhẹ nhàng mà chất chứa đắng cay 

Sao không hát cho những người đi giết giặc 

Sao không hát cho mẹ già từng đêm rơi nước mắt 

Sao không hát cho tất cả chiến binh gian khổ xa nhà 


"Từ máy thu thanh cô nàng vừa ca "

Ca trong phòng lạnh vốn ngọt ngào êm ái 

Ca an toàn ở hậu phương mà nhói lòng người quan tái 

"Đừng hát như chim trên vùng lá sầu" 


Cuộc chiến đã qua lâu rồi chỉ còn bài nhạc bể dâu 

Là lính đặc công thủy hay nhảy dù cũng vậy 

Chúng tôi chỉ cần hình ảnh người con gái 

Hiểu "Lính giữa rừng yêu lá thấp mà thôi" 

3-4-2025

BÙI CHÍ VINH.


Suy ngẫm : KHÔN NGOAN &ĐIỀM TĨNH - St trên FB.

 


KHÔN NGOAN & ĐIỀM TĨNH 

Ai mà ngờ rằng Socrates — nhà triết học vĩ đại nổi tiếng với sự khôn ngoan, điềm tĩnh và những lời nói sâu sắc — lại sống với một người phụ nữ luôn thử thách sự kiên nhẫn của ông? Vợ ông nổi tiếng với chiếc lưỡi sắc bén, tính cách thích làm chủ mọi thứ với những cơn thịnh nộ. Mỗi sáng, bà đẩy ông ra khỏi nhà khi mặt trời mọc, và ông chỉ trở lại khi mặt trời sắp lặn.

Tuy nhiên, bất chấp tính cách khó khăn của bà, Socrates luôn nói về bà với sự tôn trọng và thậm chí là lòng biết ơn. Ông từng thừa nhận rằng một phần sự khôn ngoan của ông có được nhờ bà, bởi nếu không có những thử thách hàng ngày như vậy, ông sẽ không bao giờ học được rằng trí tuệ thực sự sống trong sự im lặng, và bình an được tìm thấy trong sự tĩnh lặng.

Một ngày, khi ông ngồi cùng các học trò, bà lại bắt đầu la mắng ông như thường lệ — nhưng lần này, bà đổ nước lên đầu ông. Không nao núng, Socrates chỉ lau mặt và bình tĩnh nói, “Chà, sau tiếng sấm, mưa là điều dễ hiểu.”

Câu chuyện của bà kết thúc đột ngột. Trong một cơn gi.ận d.ữ khác, khi Socrates, như mọi khi, vẫn giữ sự bình tĩnh và im lặng, cơn thị.nh n.ộ của bà đã áp đảo. Bà bị đ.ột quỵ và qua đời ngay đêm đó. Trong khi bà bùng lên như một cơn bão, Socrates vẫn là một biển cả bình yên.


Tên bà dần dần phai mờ trong lịch sử. Sự điềm tĩnh của ông trở thành huyền thoại. Đây không chỉ là một câu chuyện về mâu thuẫn — mà là một lời nhắc nhở rằng sức mạnh thường thể hiện trong im lặng, và những người thầy vĩ đại đôi khi lại ẩn mình dưới hình hài của những con người khó khăn nhất trong cuộc sống.

Sưu tầm trên FB. 

Thơ : TỐI VĂN CÔNG - Lưu Trọng Văn.

 


TỐI VĂN CÔNG


Cô ca sĩ bước ra sân khấu

Chỉ có lính và lính

Bỗng ánh đèn phụt tắt

Một tiếng gào:

Chỉ cần tụt quần! 


Những tiếng cười

Đèn bật sáng

Sân khấu trống hoác

Cô ca sĩ biến đâu rồi?

Cả cánh rừng già Trường Sơn im lặng

Ngoài tiếng côn trùng ỉ ôi


Thằng nào vừa đòi tụt quần đấy?

Có gan thì đứng lên nào!

Một cái đầu nhô lên

Rồi cái đầu thứ hai

Rồi lố nhố những cái đầu xơ xác tóc


 Góc rừng

Cô ca sĩ rấm rứt khóc

Những thằng lính đi về phía có tiếng khóc

Đừng giận tụi anh, em ơi!

Tiếng hát ở đây không thiếu

Chỉ thiếu gái cởi truồng thôi


LƯU TRỌNG VĂN - 27.3.1975. Trà Mi, Quảng Đà.

Kỳ lạ : LOÀI CÂY "GỌI" SÉT - Sưu tầm.

 


LOÀI CÂY "GỌI" SÉT.

Loài cây dị biệt biết "gọi sét" để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh...

Không có gai nhọn, không chất độc, không mọc rễ chèn ép đối phương - nhưng cây tonka vẫn âm thầm "loại bỏ" mọi đối thủ bằng một chiến thuật sinh tồn chưa từng thấy: GỌI SÉT Để ghi lại các sự kiện sét đánh, nhóm đã lắp đặt hệ thống cảm biến điện trường, camera chuyên dụng và cả flycam để theo dõi diễn biến tại chỗ. Trong suốt quá trình Ttheo dõi, họ ghi nhận gần 100 cú sét đánh trực tiếp vào cây tonka. Kết quả rất bất ngờ: Thay vì cháy xém, gãy đổ hay chết héo, cây tonka gần như không hề hấn gì. Ngược lại, các cây nhỏ và dây leo ký sinh xung quanh lại chết hàng loạt - tạo nên một "vùng chết sinh học" quanh thân cây. Lý do cho sức mạnh "đặc biệt" này nằm ở cấu trúc sinh học đặc biệt của cây. Với chiều cao lên đến 40 mét, thân cây tonka giống như một "cột thu lôi sống" trong rừng. Nhưng khác với nhiều cây khác, nó có khả năng dẫn truyền điện tốt mà không giữ nhiệt, nhờ cấu tạo gỗ đặc biệt giúp phân tán năng lượng mà không gây nổ hay cháy thân cây. Giống như một dây điện có lớp cách nhiệt hoàn hảo, cây tonka "truyền sét" xuống đất mà vẫn giữ được sự sống. Đây là "chiến lược sinh tồn thông minh bậc nhất của cây thân gỗ". Việc tận dụng sét để tiêu diệt đối thủ và mở rộng không gian sống là điều chưa từng được ghi nhận rõ ràng trước đây trong giới thực vật.

SƯU TẦM ( Youtube )

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2025

Chuyện xưa : KÝ ỨC THÁNG TƯ - Thanh Lam.


Thầy Huỳnh Anh, hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Du - Biên Hòa, đang phát thưởng cho học sinh. 

 KÝ ỨC THÁNG 4

Tháng 4 năm 1975, tình hình chiến sự ngày càng lan rộng. Trong bối cảnh này, trường Nam tiểu học cộng đồng Nguyễn Du tỉnh Biên Hoà phải tổ chức phát thưởng cuối năm sớm cho các em học sinh trước khi kết thúc năm học 1974-1975.

Hình chụp thầy hiệu trưởng trường tiểu học Nguyễn Du Huỳnh Anh phát thưởng khối lớp 1 trong ngày 24/4/1975 tại sân trường tiểu học Nguyễn Du tỉnh Biên Hoà.

Hôm nay 24/4/2025 đúng 50 năm..

Thầy hiệu trưởng Huỳnh Anh nay đã 92 tuổi hiện sống cùng các con tại Biên Hoà.

   Thầy Huỳnh Anh, 92 tuổi (2025)

THANH LAM. 

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2025

Thơ : MỘT TIẾNG EM - Đinh Hùng.

 



MỘT TIẾNG  EM


Từ giã hoàng hôn trong mắt em

Tôi đi tìm những phố không đèn

Gió mùa thu sớm bao dư vị

Của chút hương thầm kia mới quen.


Cùng bóng hàng cây gặp giữa đường

Ân cần tôi đến ngỏ tình thương

Bao nhiêu hoài bão, bao hy vọng

Nói hết cho lòng nhẹ mối vương.


Rồi đây, trên những lối đi này

Ta sẽ cùng ai tay nắm tay

Nhịp bước năm cung đàn ảo tưởng

Buông chìm tâm sự nửa đêm nay.


Từng bước trôi cùng trăng viễn khơi

Thâu đêm, chưa hiểu miệng ai cười

Nụ cười gửi tự thiên thu lại

Tiền kiếp nào xưa, em hé môi?


Dĩ vãng nào xanh như mắt em

Chao ôi, màu tóc rợn từng đêm

Hàng mi khuê các chìm sương phủ

Vời vợi ngàn sao nhạt dáng xiêm.


Kỷ niệm thơm từ năm ngón tay

Trăng lên từ nét gợn đôi mày

Bóng hoa huyễn ảo nghiêng vầng trán

Chưa ngát hương tình, hương đã bay.


Sông biển nào nghe thấu nỗi niềm

Sóng đâu cồn khoé mắt thâm nghiêm

Lòng ơi, hoài vọng bao giờ nói

Thăm thẳm trùng dương một tiếng "em"?


Nhẹ bước chiêm bao, tưởng lạc đường

Rưng rưng mùi phấn bỗng ngùi thương

Sương đầm vạt áo mong manh lệ

Sao rụng bay vào tóc dạ hương.


Tôi lánh trần ai đi rất xa

Bâng khuâng sao lạnh ánh trăng tà

Ngày mai hứa hẹn bừng hương cỏ

Tôi sẽ say nằm ngủ dưới hoa... 

ĐINH HÙNG. 

Bài học : ẾCH TRONG NỒI NƯỚC - Sưu tầm trên mạng.

 


ẾCH TRONG NỒI NƯỚC. 

Người ta vẫn hay kể về một câu chuyện quen thuộc: nếu bạn thả một con ếch vào nồi nước đang sôi sùng sục, nó sẽ lập tức bật người nhảy vọt ra ngoài để tự cứu mình. Trái lại, nếu bạn thả nó vào một nồi nước mát lành rồi từ từ đun nóng, nó sẽ nằm yên, chẳng hề hay biết nguy hiểm đang tới gần, cho đến khi bị luộc chín trong chính sự thờ ơ của mình.

Câu chuyện ấy, nghe qua tưởng như đơn giản. Người ta dùng nó để cảnh tỉnh về sự thờ ơ trước những thay đổi âm thầm nhưng nguy hiểm, về cách mà con người dễ dàng trượt dốc trong những cái bẫy ngọt ngào của thói quen và trì hoãn.

Nhưng sự thật thì sao?

Con ếch không hề ngu ngốc. Trái lại, cơ thể nó nhạy cảm với từng thay đổi nhỏ của môi trường. Khi nhiệt độ nước bắt đầu tăng lên, làn da ẩm ướt của nó lập tức cảm nhận được. Nó biết. Biết rất rõ.

Thế nhưng, thay vì nhảy ra, nó lại chọn ở lại. Bởi vì nó tin rằng mình vẫn chịu được. Nó vẫn nghĩ rằng cơ thể có thể thích nghi thêm một chút nữa thôi. Chút nữa thôi mà.

Cứ mỗi độ nước nóng thêm một chút, cơ thể nó lại phải điều tiết thêm một phần năng lượng. Ban đầu là điều chỉnh nhẹ nhàng, sau là dồn lực gồng lên chống lại cái nóng. Cứ như vậy, sức lực trong con ếch bị bào mòn dần, từng chút một. Và rồi, khi dòng năng lượng cuối cùng cạn kiệt, con ếch cuối cùng cũng quyết định nhảy. Nhưng khi ấy, đã quá muộn. Đôi chân không còn sức để bật lên, nó đành nằm đó, tuyệt vọng, bất lực, và chết trong chiếc nồi nước tưởng như vô hại.

Nó chết không phải vì nước quá nóng. Nó chết vì không nhận ra giới hạn thật sự của chính mình. Nó chết vì đã đánh đổi tất cả niềm tin vào một khả năng thích nghi không bền vững.

Còn chúng ta, những “chú ếch” đời thường liệu có khác?

Ta biết mình đang trì hoãn một bài học, chậm trễ một công việc, sa đà vào một thói quen xấu, chôn vùi thời gian trong những thú vui vô bổ. Ta biết rõ. Rõ đến từng chi tiết. Nhưng vẫn tự nhủ: "Mình còn kịp, vẫn còn ngày mai, chưa đến mức nghiêm trọng đâu."

Rồi một ngày, khi ta thật sự muốn thay đổi, quay đầu, bắt đầu lại… có khi ta cũng đã chẳng còn sức để nhảy nữa.

Đừng đợi đến lúc nước đã sôi.

Đừng để cái giá của một phút trì hoãn là toàn bộ cuộc đời.

Không phải lúc nào biết nguy hiểm là đủ, quan trọng là phải dám rời khỏi nó khi còn có thể


(st)

Suy ngẫm : NHÂN QUẢ - St trên FB.

 



NHÂN QUẢ. 

Một ông cụ già yếu chuyển tới sống với con tɾαi, con dâu và cháu tɾαi 4 tuổi. Tuổi già sức yếu, tαy ông cụ luôn luôn ɾun ɾẩy, mắt mờ ᵭục ᵭi, thậm chí ᵭi lại còn không vững. Bαn ᵭầu, tất cả mọi người ᵭều dùng Ьữα cùng nhαu tɾên Ьàn ăn. Tuy nhiên, với ᵭôi tαy lúc nào cũng ɾun Ьần Ьật và ᵭôi mắt ᵭã không còn nhìn ɾõ, việc ăn uống tɾở nên khó khăn hơn Ьαo giờ hết.

Thức ăn và ᵭồ uống vương vãi khắρ chỗ ngồi củα ông cụ. Điều này khiến cho con tɾαi và con dâu ông vô cùng Ьực mình.

“Chúng tα ρhải làm gì ᵭó với ông nội thôi. αnh không thể chịu ᵭựng пổi cách ăn uống ồn ào, Ьừα Ьộn và thức ăn vương vãi ᵭầy tɾên sàn như vậy nữα”, αnh con tɾαi nói với vợ.

Ngày hôm sαu, hαi vợ chồng αnh con tɾαi kê thêm một chiếc Ьàn nhỏ ở tɾong góc làm Ьàn ăn cho Ьố. Ông cụ ngồi ăn thui thủi một mình tɾong khi giα ᵭình con tɾαi vui vẻ ăn tối ngαy Ьên cạnh.

Sαu khi làm vỡ vài chiếc ᵭĩα, ᵭĩα ᵭựng thức ăn củα ông cụ ᵭược ᵭựng vào một chiếc Ьát gỗ. Thỉnh thoảng nhìn sαng ρhíα chiếc Ьàn nhỏ, mọi người ᵭều nhận thấy những giọt nước mắt chầm chậm lăn tɾên má ông cụ.

Thế nhưng, những gì mà hαi vợ chồng người con tɾαi thốt ɾα chỉ là những lời chì chiết gαi góc Ьất cứ khi nào ông cụ làm ɾơi ᴅαo nĩα hαy làm ᵭổ thức ăn. Tɾong suốt thời giαn ᵭó, cậu con tɾαi 4 tuổi ᵭã lặng im quαn sáϯ tất cả.

Một hôm tɾước Ьữα ăn tối, ông Ьố nhìn thấy con tɾαi nhỏ ᵭαng chơi gì ᵭó với miếng gỗ thừα tɾên sàn nhà liền nhẹ nhàng hỏi xem cậu Ьé ᵭαng làm gì.

Bằng một giọng nói ᵭáng yêu, ngây thơ hết sức cậu con tɾαi cười và nói: “Con ᵭαng làm một cái Ьát gỗ nhỏ cho Ьα mẹ ăn khi Ьα mẹ già ᵭi ᵭó”. Tɾả lời xong cậu Ьé quαy tɾở lại chăm chú với tɾò chơi còn dαng dở.

Cậu Ьé lặng lẽ quαn sáϯ cách Ьố mẹ cư xử với ông nên ᵭã quyết ᵭịnh làm tɾước một chiếc Ьát gỗ ᵭể ρhục vụ Ьố mẹ lúc về già.

Nghe những lời như kim ᵭâм vào ϯiм ᵭó, vợ chồng αnh con tɾαi chẳng thể nói gì. Nước mắt Ьắт ᵭầu chảy dài tɾên má cả hαi người. Mặc dù không αi nói với αi câu gì nhưng cả hαi vợ chồng ᵭều Ьiết họ sẽ ρhải làm gì.

Tɾong Ьữα tối hôm ᵭó, αnh con tɾαi ᵭã nắm lấy Ьàn tαy ɾun ɾẩy củα Ьố mình, nhẹ nhàng dắt ông tɾở lại Ьàn ăn ngồi cùng với cả giα ᵭình.

Từ ᵭó cho tới những ngày cuối cùng củα cuộc ᵭời, ông cụ vẫn luôn ăn tối cùng giα ᵭình còn con tɾαi và con dâu cũng chẳng αi ᵭể ý tới chiếc ᵭĩα Ьị ɾơi, vết sữα ᵭổ hαy khăn tɾải Ьàn Ьị ố nữα.

“Gieo nhân nào thì gặt quả nấy”, ở hiền gặρ hiền, ở áċ gặρ áċ. Dù mối quąn hệ giữα chα mẹ con cái không tốt nhưng ᵭến khi chα mẹ ɾời khỏi cõi ᵭời này, Ьạn sẽ hiểu họ có ý nghĩα như thế nào tɾong cuộc ᵭời mình.

Con cái cũng sẽ nhìn vào cách cư xử củα Ьố mẹ với ông Ьà mà học tậρ. Hαy nói cách khác, Ьạn ᵭối xử với Ьố mẹ mình thế nào thì sαu này con cái Ьạn cũng sẽ ᵭối xử với Ьạn ᵭúng như thế. Đó chính là luật nhân quả ở ᵭời.

Chuyện đã qua : SAU NGÀY TÀN CUỘC - Kiem Mai Ba (fb)

 



SAU NGÀY TÀN CUỘC.


Ngày 2/5/1975, UBND Cách mạng xã Phú Xuân gọi tất cả binh lính chế độ cũ mang theo “căn cước quân nhân”, “chứng chỉ tại ngũ”… đến xã trình diện. Mọi người điền vào tờ khai nộp và xếp hàng chờ đến lượt bà Sáu Nhung (chủ tịch xã, trên 30 tuổi, mặc bà ba đen, quấn khăn rằn, mang AK) phỏng vấn vừa đập bàn: “Anh bắn chết bao nhiêu cán bộ cách mạng?” – “Nói láo, đi lính 3 năm mà không bắn chết chiến sĩ giải phóng nào? Phải thành khẩn khai báo mới được hưởng khoan hồng của cách mạng”…


Là du kích Bến Tre, bà Sáu Nhung căm thù lính Sư đoàn 7 và lính Tiểu khu Kiến Hòa, bà hỏi “Mày ở Trung đoàn 10, mà ở tiểu đoàn 3/10 hay 4/10?” – “Mày ở Trung đoàn 11 có biết 2 thằng tiểu đoàn trưởng 2/11 và 3/11 ác ôn đang trốn ở đâu không?” – “Mày có tham gia trận càn ngày 22/6/1970 không?”. Đối với lính địa phương quân thì bà đọc tên những đồn trưởng khát máu, ác ôn. Bà “quay” lính Sư đoàn 7 và lính Tiểu khu “lên bờ xuống ruộng” cả 15 phút/người, cho đến khi mồ hôi trán đổ ướt mặt mới thôi.


Có lẽ, bà chưa đụng trận với Lực lượng trù bị rằn ri, như Thủy quân Lục chiến, Nhảy dù, nên bà không đưa họ vào “diện phỏng vấn đặc biệt”. Nhưng đến lượt tôi, tuy “chưa kịp gây nợ máu”, nhưng bà thắc mắc về cấp bậc của tôi ghi là “sinh viên sĩ quan”: “chỉ có chuẩn úy, thiếu úy, làm gì có cấp bậc SVSQ?” Tôi trình bà căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ, sự vụ lệnh cử tôi đi Mỹ, tất cả đều ghi “SVSQ M.B.K”. Bà hỏi “nếu tốt nghiệp anh mang lon gì?”, tôi nói “thiếu úy” - "vậy anh ghi “thiếu úy”. Tôi trình bày “Tôi về nước ngày 13/3/1975, tuy có bằng phi công, nhưng tôi phải học thêm khóa “Điều chỉnh sĩ quan”. Ngày 28/3/1975 lẽ ra tôi ra Nha trang học điều chỉnh, thì Đà nẵng thất thủ, nên ở lại Tân Sơn nhứt thuộc “Đơn vị thặng số”. Bà Sáu tịch thu giấy tờ của tôi rồi ký lên “Giấy đăng ký học tập cải tạo”.


Những ngày sau đó, cứ 5 giờ sáng, ông Hai Ngóc tổ trưởng đi khắp xóm gọi “ngụy quân, ngụy quyền” tập họp ở văn phòng ấp đi làm thủy lợi. Má tôi nấu cơm, tôi bỏ cơm và khô cá vào lon Guigoz để ăn trưa. Ông Hai Ngóc có con đi lính VNCH, thằng Giáp đi lính VNCH xung phong làm tổ phó cũng gọi tôi “lính ngụy”. Thằng Sủng chưa đi lính - con Sáu tiệm vàng chuyên buôn đô la đỏ, làm bí thư đoàn ấp canh me tôi sát nút, sau đó nó vượt biên sang Mỹ! Ông Bảy Sang, ông Năm Dần, ông Tư Kiệt, có đi Việt Minh rồi về thành, đến 30/4/1975 nhảy ra đeo băng đỏ làm trưởng ấp. Ông Ba Xuân thợ giặt ủi, xưng là người chỉ điểm pháo kích tổng kho xăng dầu Nhà Bè, làm phó công an xã, miệng hét ra lửa! Nhớ lại, muốn thành “sĩ quan đề lô” (Détachement liaison de Observation) của VNCH phải tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức, rồi đến Dục Mỹ học pháo binh 6 tháng, mới đi tiền tiêu điều chỉnh tác xạ. Ông Ba Xuân thợ giặt ủi làm đề lô, nên pháo bay khỏi Tổng kho xăng dầu hơn 1 cây số, rớt trúng nhà ông Tư Tẩu làm chết 4 người !


Ông Bảy Sang trưởng ấp 5, đạo Cao Đài, bận bà ba trắng mang K.54, ông Tư Kiệt người lùn mặc pijama đen, mang CKC dài chấm đất. Tôi không sợ người mặc quân phục mang súng, vì họ có quân kỷ, còn bà ba và pijama mang súng, không biết họ nổ lúc nào? Khi họ nhắm bắn ăn cướp thì chắc chắn trúng người la làng. Trước đó, ông Bảy Sang chạy xe lam, ông Tư Kiệt sửa xe đạp là người có tuổi, sống tử tế. Nhưng bất ngờ nhất là bác Năm Dần, bác quản lý đám “ngụy quyền” đắp thủy lợi, đứng trên bờ đê chửi những bạn lười, câu giờ: “Bọn mũi nhọn, lông tay bị đánh chạy về nước hết, tụi bây là tay sai, không còn bơ thừa sữa cặn mà liếm đâu, ở đó mà làm biếng nhớt thây, “ngụy quân” phải tự giác lao động, học tập cải tạo để được cách mạng khoan hồng!


Bên thắng cuộc liên tục chửi “ngụy quân, tay sai, liếm gót” trên loa, trên đài chưa hết nhục, đàng này bác là dân Phú Xuân mấy đời như ba tôi, sao bác chửi con cháu thậm từ như ở miền ngoài vậy? Hôm đó, bác 5 Dần phân công nhóm 10 “ngụy quân” tôi, một người dùng len xắn đất, chuyền tay lên đắp tại mặt bọng. Đất ruộng nơi có bọng thì trũng và nhão, nên cục đất khi tới bờ rã ra còn phân nửa, đến 11g trưa vẫn chưa đầy. Cứ mỗi lần bác đi kiểm tra ở các dây khác là có người trong dây của tôi trốn, đến 11g30 còn 3 người. Tôi xin bác cho ăn cơm trưa và cho thêm người để chiều đắp. Bác nói tụi bây không biết tự quản lý, để 7 thằng bỏ trốn, 3 thằng còn lại phải đắp cho đầy, chiều mà không đầy, 3 thằng nằm xuống để tao đắp đất, lấy thân tụi bây độn như cây ráng.


Tôi nói “Bác không có quyền coi tui tôi như thú, tôi về đây, bác muốn làm gì thì làm”. Ngày hôm sau, ông Hai Ngọc phó ban an ninh ấp gọi tôi lên xử lý. Tại văn phòng ấp, không thấy 5 Dần, tôi xin ông Hai Ngọc mời 5 Dần và 2 người còn lại để đối chứng. Ông Hai Ngọc nói “Không cần, chú bị Mỹ nhồi sọ, bây giờ muốn chống chánh quyền cách mạng hả?”. Tôi nói, tôi không hề có hành động hay lời nói xúc phạm tới chính quyền cách mạng, rồi tôi kể hết đầu đuôi câu chuyện, ông Hai Ngọc có vẻ hiểu, bắt tôi viết kiểm điểm, rồi cho về. Ba tháng sau ngày 30/4, hệ thống thủy lợi ấp 5 và ấp 6 được đắp bằng đất chèn lá dừa nước đã sạt lở. Chúng tôi gia cố cừ tràm, đắp thêm. Nhưng sau vụ lúa mùa (6 tháng), hệ thống thủy hại không giữ được nước cấy vụ đông xuân. Từ đó, xã Phú xuân trở về một vụ như thời chưa được giải phóng.


TÔI SUÝT BỊ XỬ TỬ:


Rạng sáng 17/6/1975, một giọng Bắc gọi “mở cửa” kèm theo tiếng báng súng dộng vào cửa trước. Tôi và ba tôi ngủ trên bộ ván nhà trên, bật dậy mở cửa, bật đèn. Một anh bộ đội bước vào chĩa súng vào bụng tôi, kéo cơ bẩm lên đạn và bảo “đứng im”. Thiếu úy Nguyễn Văn Thiệu - đại đội trưởng thuộc E.88 (quân quản ấp 4, 5, 6) buớc vào nhà cùng 3 bộ đội khác, nói “Hôm qua là ngày cuối cùng cho sĩ quan ngụy cấp úy trình diện đi cải tạo, chúng tôi đến đây để cưỡng chế đối tượng MBK đi học tập”. Sợ quá - hóa liều, tôi đưa hai tay lên trời, ưỡn bụng ra và nói “Nếu các anh có bằng chứng tôi là thiếu úy, các anh cứ bắn tôi. Các anh qua bà Sáu Nhung xem các giấy tờ tôi nộp có ghi cấp bậc thiếu úy không? Giấy tờ đó đều ghi tôi là SVSQ. Ở Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức, SVSQ tốt nghiệp mang lon chuẩn úy, mà chuẩn úy không đi học tập trung, tôi còn thấp hơn chuẩn úy nên không đi tập trung là đúng”


Thiếu úy Thiệu nói “Nhân dân tố cáo anh là thiếu úy, học bên Mỹ về”. Tôi nói, các anh và bà Sáu Nhung là cán bộ cách mạng, ở cách nhau chưa đầy một cây số sao không gặp để xem giấy tờ của tôi nộp, hoặc mấy anh liên lạc với đơn vị quân quản căn cứ Tân Sơn Nhất xem tàng thư tôi có phải thiếu úy không? Thiếu úy Thiệu nói “nhân dân tố không bao giờ sai”! Tôi bỗng nhớ còn giữ thẻ lãnh lương. Thẻ màu vàng có hình tôi, có chữ ký tôi lãnh lương tháng 3 và tháng 4 là 17.800 đồng/tháng. Tôi nhờ ba tôi lấy bóp của tôi móc ra thẻ lương, tôi cắt nghĩa “17.800 đồng là lương trung sĩ, chứ không phải lương thiếu úy”! Ba má tôi hiểu thế nào là chứng cứ, cùng lên tiếng kêu oan cho tôi. Ba tôi nói “nếu nó là thiếu úy ông bắn luôn tôi đi”. Thấy không ổn, thiếu úy Thiệu ra hiệu, anh bộ đội rút mũi súng ra khỏi bụng tôi, lui về cạnh cửa. Chị Hai và ba em gái tôi khóc, thiếu úy Thiệu nói “Tôi đưa anh K về văn phòng đại đội để điều tra, không ai được đi theo, nếu anh K không phải sĩ quan, tôi sẽ trả về chính quyền địa phương quản lý”.


Văn phòng đại đội là nhà mượn của ông Sáu Tiệm, cách nhà tôi 400 mét, lúc đó trời sáng, hàng xóm tò mò xem tôi bị bắt. Tại nhà chú Sáu Tiệm, tôi yêu cầu thiếu úy Thiệu liên lạc với bà Sáu Nhung, nhưng anh ta lờ đi và nói “Anh học ở Mỹ, chúng nó nhồi sọ anh chủ nghĩa đế quốc, để chống phá chủ nghĩa Mác Lê, anh nên tình nguyện đi cải tạo để trở thành công dân tốt”. Biết đây là bước nhượng bộ, tôi nói “Tôi là con trai một với 4 chị em gái, nên không di tản dù đang ở sân bay Tân Sơn Nhất, tôi không phải diện đi cải tạo tập trung, các anh hãy để tôi về để lo cho cha mẹ. Thiếu úy Thiệu đưa tôi 2 tờ giấy ca rô và bắt tôi viết tường trình. Khoảng 9 giờ, thiếu úy Thiệu cho tôi đi bộ về nhà. Từ đó, chòm xóm không ai nói chuyện với tôi, buồn nhất người anh chú bác ruột cũng lánh mặt tôi 3 tháng.


Nhà tôi có cửa ngõ và rào ba mặt, mặt sau giáp con rạch không có rào. Khi bộ đội chĩa súng vô bụng tôi ở nhà trên, em gái út 15 tuổi sợ quá, mở cửa trốn ra sau, bỗng thấy 2 bộ đội cầm súng, nghĩa là họ lội từ rạch lên, bao vây chu đáo! Từ đó, mỗi đêm nghe chó sủa là tim tôi muốn rớt ra ngoài. Sau khi hết đi thủy lợi, tôi xin làm thư ký cho “Công đoàn xe lam” (Sau là HTX xe lam), tôi đánh máy giỏi, viết báo cáo hay (cho phòng giao thông) nên bác Nhu chủ tịch Công đoàn quý tôi. Làm được 4 tháng, ông Hai Ngọc phó ban an ninh Ấp thấy tôi ngồi đánh máy, bèn gọi bác Nhu ra nói “Thằng này học Mỹ về, anh cho nó làm, nó coi hết tài liệu của ta”. Thế là mất việc, tôi đành xin làm “công nhật” ở NM luyện cán thép Việt Thành, dùng búa tạ đập sắt gù mới ra lò. Một tổ 4 thằng, đập 4 vỉ (40 phôi sắt) ăn 44 xu. Mỗi tổ phải đập 16 vỉ, để mỗi thằng lãnh 44 xu/ngày. Một bạn trong tổ tôi bị phôi sắt đè gãy chân, tôi không bị thương nhưng chân tay bị phỏng, sau một năm rưỡi đập sắt gù, tôi làm cháy hai đôi giày bottes de saut (của trường Bộ binh TĐ và trường bay Sheppard), bù lại tôi biết đứng trên giàn cao 3 mét, quay búa 7 kg cả chục vòng không mỏi.


TÔI ĐƯA EM SANG SÔNG.


Tôi cù lần, nhát gái, 21 tuổi vào trường Bộ binh Thủ đức chưa có mảnh tình lận lưng. Mỗi chủ nhật, ra vườn tao ngộ thấy bạn gái đi thăm bạn đồng khóa mà mơ. Tháng 12/1972, sang Không quân, tôi quen được một hoa khôi trường Trung học Cần Giuộc, nhờ người quen hai bên làm mai. Da nàng trắng, mũi cao, môi son, tóc dài, chữ viết bay bướm với nét đá, nét bụng. Tháng 6/1973 tôi học Anh ngữ tại Gò vấp, nàng học Trường QG Sư phạm Sài gòn thỉnh thoảng nghỉ trưa tôi xách xe máy ra trường nàng ngồi ghế đá tâm sự, khiến nhiều bạn (nam lẫn nữ) ghen tỵ. Chúng tôi có đến nhà nhau ra mắt ba má. Nàng đi coi bói kể lại tôi “Anh Tân Mẹo, cầm tinh con mèo, xuất tướng tinh con rái cá, cân nặng “1 cây hai”, mạng tòng bá mộc. Em Nhâm Thìn, cầm tinh con rồng…mạng trường lưu thủy. Thầy nói, nước sông dài nuôi cây cao, bóng cả là rất hạp nhau”. Tháng 10/1973, tôi thi đủ điểm đi Mỹ, nàng may 2 áo dài tím, hứa sẽ mặc đi dạy sau khi tốt nghiệp tháng 6/1974.


Tôi ở Mỹ 16 tháng, thư từ VN qua Mỹ và ngược lại mất 2 tuần, tôi đã gửi 15 lá thư và nhận 15 lá. Mỗi lá tôi kèm 5-6 tấm hình màu, mỗi lá nàng kèm một chân dung trắng đen chụp ở ảnh viện, tấm nào cũng đẹp như nghệ sĩ. Năm 1974, nàng lên Lai Khê (gần căn cứ Sư đoàn 5 bộ binh) dạy tiểu học. Khi tôi về nước, nàng về 2 lần vào ngày chủ nhật trong tháng 3/1975 để gặp tôi ở nhà bạn học ở Q.8. Sau đó, tình hình chiến sự leo thang, quốc lộ 13 không an toàn, tôi không gặp nàng nữa. Sau 30/4, tôi bị quản chế tại chỗ, không thấy nàng về thăm. Khoảng tháng 9/75, nàng hẹn gặp tôi ở nhà bạn nói rằng, việc dạy học ở Lai Khê quá vất vả, thiếu điện, thiếu dầu, thiếu gạo nàng sống không nổi. Ty Giáo dục chỉ cho cô nào có chồng được về Sài gòn. Má nàng biết vậy ép nàng lấy anh B. kỹ sư công chánh, đang làm phó giám đốc một xí nghiệp (Má nàng và má KS. B là bạn thân).


Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói “Hiện tại của anh mất, tương lai anh không có, còn dĩ vãng của anh bị sỉ nhục, nguyền rủa mỗi ngày. Mạng anh là cây tòng bá giờ thành “tà bóng”, không thể che cho em! Anh chúc em hạnh phúc”! Một hồi sau, nàng nói “Em lấy chồng, rồi sẽ có ngày anh lấy vợ. Thư và hình ảnh tặng cho nhau có thể làm cho tụi mình mất hạnh phúc”. Tôi nói “Em đúng, anh sẽ trả cho em tất cả thơ, hình”. Nhớ ngày 27/1/1973, Mỹ và Bắc Việt trao trả tù binh cho nhau tại sông Bến Hải và Lộc Ninh. Hơn hai năm sau, tôi và nàng “trao trả thư từ” tại Q.8. Chủ nhật tuần sau đó, nàng đưa tôi xấp thư gói trong giấy báo. Tôi đưa lại nàng xấp thư, nàng giở ra kiểm tra từng tấm ảnh. Tôi không kiểm tra thư. Đám cưới nàng không mời tôi, như lời tôi dặn lúc chia tay. Nàng sinh đứa con trai đầu lòng năm 1976, nên được về Sài gòn vì lý do con mọn. Tôi đàn guitar hay, nhưng ca rất dở, vậy mà cứ khoái hát bài “Tôi đưa em sang sông” của Y Vũ – Nhật Ngân.


Năm 1979, Trung đoàn E.88 sang Campuchia đánh Ponpot, thiếu úy Thiệu hy sinh, tôi buồn và cầu cho anh siêu thoát. Nếu anh bộ đội chĩa súng vô bụng tôi đọc được bài này, xin vui lòng liên lạc, tôi sẽ đãi anh nhậu với rượu XO. Bởi vì, anh đã không lỡ tay cướp cò, hoặc là trong băng đạn không có đạn. Dù giả thiết nào tôi đều biết ơn!

KIEM MAI BA ( FB )