Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2025

Cuộc sống : KHÔNG LÀM GÌ Ở NHÀ - Sưu tầm.

 


KHÔNG LÀM GÌ Ở NHÀ. 

Tượng đài của “người phụ nữ không làm gì ở nhà”

Người ta vẫn hay nói: “Ở nhà thì có gì đâu mà bận, chỉ ăn rồi lo mấy việc vặt vãnh thôi.” Nhưng sự thật là, trên đôi vai thầm lặng của người phụ nữ, có cả một thế giới – cơm nước, giặt giũ, chăm con, lo toan từng chi tiết nhỏ nhặt nhất để cả gia đình được bình yên.

Bức tượng này khắc họa một cách chân thực đến xót xa: trên lưng người mẹ là cả núi đồ đạc, vật dụng, trách nhiệm, còn dưới chân là những đứa con đang níu lấy bà. Không tiếng than, không lời kêu ca – chỉ có dáng lưng còng xuống và ánh mắt nặng trĩu.

Đây chính là hình ảnh của “lao động vô hình” – thứ công việc không có bảng lương, không chức danh, chẳng ai khen ngợi, nhưng lại là nền móng giữ cho gia đình và xã hội vận hành.

Ta thường dựng tượng đài để tưởng nhớ anh hùng, nhưng thử hỏi: có bao nhiêu “anh hùng thầm lặng” ngay trong mái nhà đã bao lần quên đi tuổi xuân, quên đi giấc mơ của chính mình, chỉ để dành chỗ cho hạnh phúc của người khác?

Đừng đợi đến khi những tượng đài như thế này được dựng lên mới cúi đầu thừa nhận. Hãy học cách nhìn thấy, trân trọng và sẻ chia ngay từ hôm nay. Bởi sự công bằng không phải là món quà, mà là cách chúng ta trả lại giá trị xứng đáng cho những người đã hy sinh quá nhiều mà chưa bao giờ đòi hỏi.

Đôi khi, điều lớn lao nhất ta có thể làm, chỉ đơn giản là nói: “Cảm ơn, vì tất cả những gì anh-chị đã làm.”

SƯU TẦM. 

Hồi ức : BỮA CƠM QUÊ - Sưu tầm.

 



BỮA CƠM QUÊ.

Ngày ấy, gần nhà có nhà máy phi lê cá basa. Mẹ thường hay mua ức cá về kho tiêu.

Ức cá basa thì bảy phần là mỡ, chỉ ba phần là thịt, nhưng chính cái mỡ ấy khi kho lên lại tươm ra, vàng óng, thơm lừng. Ăn lúc còn nóng mới ngon, chỉ cần cắn một miếng thôi là vị béo ngậy tan ra trong miệng, quyện cùng vị tiêu cay nồng, đậm đà khó quên.

Giờ thì lâu lâu mới thấy người ta bán ức cá. Nó mua về, cũng kho tiêu, chỉ để tìm lại hương vị xa xưa ấy.

Bên ánh đèn dầu vàng vọt, mâm cơm quê ngày nào giản dị mà ấm áp, như ôm trọn cả ký ức tuổi thơ. Ơ ức cá kho tiêu dậy mùi thơm, từng miếng cá béo bùi, cay cay, mằn mặn. Bên cạnh là tô hột vịt luộc dầm nước mắm – gợi nhớ những bữa cơm vội nhưng chan chứa tình thương. Đĩa rau lang luộc xanh mướt, chấm cùng chén mắm tỏi ớt – đơn sơ mà trọn vẹn. Tất cả hòa vào không gian xưa cũ: tiếng radio rè rè, mùi khói bếp còn vương… để lại một miền ký ức không bao giờ phai.

Sưu tầm trên FB 

#khoibepvagio #mientay #buacomque

Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2025

Hồi ức : THỜI TẬN DỤNG... - Phạm Công Luận.


( Xe chạy bằng than có bình sắt lớn phía sau! )

THỜI TẬN DỤNG…

Đó là một thời kỳ lạ xuất hiện sau năm 1975 ở miền Nam vì chưa bao giờ diễn ra như vậy. Cuộc sống khó khăn ập đến, hiện diện mỗi ngày trong từng gia đình. Mọi nhu cầu đều phải co lại, chỉ còn ưu tiên ăn và mặc.

Thời đó, sợ nhất là bị trộm quần áo. Phơi đồ trên dây sát hàng rào luôn phải trông chừng không chút nào ngơi vì có thể bị móc trộm. Nhà nào có được cái quần jean từ nước ngoài gửi về mà bị mất là méo cả mặt. Loại quần này bận đến bạc phếch vẫn đẹp, rách vẫn có thể tận dụng vải để may nón, túi xách, không bỏ chút gì. Áo sơ mi bận lâu bị sờn cổ hay bị ố vàng vì mồ hôi, sẽ có người nhận lộn cổ áo lại nhìn như mới, hoặc đem nhúng vào dương giấy cho có màu xanh lơ thay vì màu vàng cũ do giặt bằng xà bông đá 65 phần dầu.

Vài cô thợ may nhận vá mông quần của khách bị rách bằng những đường chỉ tạo thành hình vuông hay tròn đồng tâm rất khéo, rất nhuyễn. Nhà nào trong nhà còn trữ đồ lính Việt Nam Cộng Hòa do cha anh để lại thì rất may mắn cho mấy cậu con trai. Quần đem sửa lại cho vừa, nhuộm đen, vừa đẹp vừa bền. Chỉ có điều bất tiện, khi giặt phải để riêng, nếu không màu nhuộm sẽ thôi ra quần áo khác, và khi ủi xong phải lau mặt bàn ủi cho sạch màu đen.

Học trò đi học, sau khi dùng nát mấy cái cặp da, cặp giả da từ mấy năm trước của cha anh bỏ lại, giờ đi học bằng túi vải may từ vải bố. Anh nào giữ thói quen mang khăn mùi xoa trong túi quần thì nhờ người thân cắt miếng vải vuông từ lưng áo cũ, may viền bốn cạnh là có cái khăn lịch sự thỉnh thoảng móc ra chậm mồ hôi trên trán lấy le. Ai giữ được vài xấp vải xoa Pháp, tergan hay dacron là yên tâm để nếu cần đem ra may bận đám cưới, hoặc có thể bán ra mua gạo mà ăn.

Còn ăn uống thì có gì ăn nấy từ số lương thực phân phối, là bột mì, bo bo, khoai mì, khoai lang… ăn không nổi thì đem đổi gạo dù phải chịu thiệt. Mọi gia đình tìm đủ cách xoay xở cho bữa cơm gia đình. Vai trò của phụ nữ trong nhà nổi lên, khi đàn ông vắng nhà đi học tập cải tạo, hoặc thất nghiệp. 

Những người đang bước vào tuổi sáu mươi, ai cũng có câu chuyện của mình khi đã trải qua thời gian đó. Câu chuyện của anh Hùng, bạn tôi trong một buổi họp mặt khiến mọi người như trở lại thời mình mới hơn mười tuổi mà dư vị của một thời quá đậm đà không quên được.

Hùng kể căn nhà của anh ở Bà Quẹo lúc đó có tới mười ba người, ba mẹ và các con. Trong đó, chỉ có vài người anh chị của Hùng đi làm công nhân viên với lương và nhu yếu phẩm bèo bọt. Ba đang lái xe buýt thì sau 1975 bị thất nghiệp vì không còn xăng. Má bán ngoài chợ nhỏ, xoay xở đủ mọi cách để có bữa ăn cho mười ba miệng ăn. 

Chị của Hùng kể lúc ra phía Lăng Cha Cả có gặp một chị bạn hồi trung học lang thang ngoài đó bán khoai lang luộc, đi cùng một cô bạn. Chị ấy trước năm 1975 đang học đại học Luật, gia đình sống trong cư xá dành cho sĩ quan cảnh sát ở Phú Nhuận. Hai chị đó đi bán mà không ai mua, buồn tình đi ngắm chợ trời, ở đó có bán đủ thứ món của Sài Gòn tư bản lấy ra từ các nhà người Mỹ bỏ đi trước ngày 30 tháng 4, hoặc chính người trong nhà đem ra bán để đổi lấy gạo hay quần áo, có từ cái đồng hồ Nhật, Thụy Sĩ đến tủ bàn ghế, máy Akai, dĩa hát, xe đạp, dụng cụ nhà bếp… Chị ấy kể nhiều bữa phải ôm rổ khoai lang bán ế thất thểu ra về, bụng hai chị em đói meo mà không dám mua món gì để ăn.

 Nhà Hùng, má xoay đủ mọi cách để có bữa cơm tạm được cho cả nhà. Má mua đầu cá thác lác về kho với nước dừa, ngon và béo ngậy, rất hao cơm. Hôm nào chị Hai mua được đầu tôm càng về kho tàu (thân tôm để xuất khẩu) là càng tốn cơm với đám con đang lớn. May là có vườn nhà bà Năm kế bên, hôm nào thiếu thức ăn chỉ cần làm tô nước mắm kho quẹt, ra vườn hái mớ rau để chấm là đủ bữa cơm. Ngon nhất là rau càng cua, đem vô rửa sạch trộn với dấm và trứng luộc xắt khoanh mỏng. Đến Tết, nấu được nồi thịt kho thì bỏ vô nhiều đợt trứng cho thấm hết chất nước giàu đạm và béo, đến khi cạn nước mới thôi.  

Kế bên nhà của Hùng có một khoảnh vườn nhỏ của bà Năm, người trong dòng họ. Bà Năm ở xa nên nhờ ba má Hùng trông giùm khoảnh vườn này. Ở đó, má trồng bông huệ, bông vạn thọ đợi lớn đem ra chợ bán, xoay đủ kiểu để kiếm tiền lo ba bữa cơm. Ba không khỏe, các anh chị lớn đều đi làm nên không thể khai thác được miếng vườn nhiều hơn. Vườn tược trở nên hoang sơ, tối gió thổi lồng lộng vào nhà, đầy tiếng mèo hoang hơn chục con kêu gào từ đó vọng vào.

Một hôm, Hùng vừa bước vào bếp bỗng thấy cả đám mèo từ bên vườn dò dẫm bước qua gian bếp. Trong tủ bếp, má để dĩa cá cho chị Hai đi làm ca về trễ  ăn bữa cơm tối muộn. Hai ba con mèo tinh quái dùng tay khều cái chốt tủ gạc-măng-giê, mở toang cửa và lôi con cá ra thật nhanh. Hùng chạy tới thì cá đã bị mèo ngậm mang đi. 

Tối đó, ba và mấy ông anh ngồi tính toán bàn với nhau. Mấy con mèo phá quá, kêu gào, ăn vụng đủ thứ. Đang lúc khan hiếm chất đạm, thịt mèo cũng là loại thịt ăn được, thì phải tính. Thế là vài hôm sau ông anh lớn mang về một cái bẫy bằng lưới kim loại, nhìn giống bẫy chuột nhưng lớn hơn. Chỉ cần chút mồi là bắt được một con. Mấy anh em xúm lại nhổ lông, làm thịt. Món ragout, xào, rô ti… nấu bằng thịt mèo khá ngon, thịt mèo ngọt, ăn ngon khi còn nóng. Có người hàng xóm còn qua xin gan mèo về làm phá lấu ăn với bánh mì, cho con ăn chữa bệnh suyễn. 

Đợt ăn thịt mèo hoang đó diễn ra khoảng năm 1980. Anh em nhà Hùng ăn mấy đợt, lúc đầu thấy ngon miệng nhưng ăn riết cũng ngán. Nhưng nhờ vậy cả nhà đỡ hốc hác vì thiếu dinh dưỡng. Năm 1980, Hùng thi đậu vào đại học cũng nhờ ăn đủ chất, có sức thức khuya. 

Cuộc sống có lúc như vậy, nhưng khó khăn vẫn hoàn khó khăn. Một hôm, chị Hai của Hùng đi làm về đến nhà, chở phía sau poọc ba ga xe đạp của chị một cái bao rất lớn nhưng có vẻ nhẹ bổng. Mấy đứa em háo hức mở ra, ỉu xìu ngay vì trong đó chỉ là những cụm bông gòn phế phẩm xỉn màu mà chị xin ở công ty Bạch Tuyết nơi làm việc. Chị Hai mỉm cười, bảo để yên cho chị. Tối đó, chị giở tờ báo Khoa học Phổ thông mượn của ai đó, cắm cúi đọc trong ánh đèn điện leo lét của những năm thời bao cấp, may là hôm ấy điện không bị cúp. 

Cuối tuần, chị Hai lần dò sang vườn bà Năm kế bên nhà. Trên sàn xi măng, chị trải một lớp bông gòn xuống và rắc một lớp meo nấm rơm mà chị đã mua sẵn. Cứ một lớp bông gòn lại đến một lớp meo, xong dùng vải đậy lại cho kín. Đợi một thời gian, mở ra thấy một lớp như màng nhện màu trắng nổi lên là biết thành công, chỉ đợi nấm chui ra. Đến ngày rằm, chị thu hoạch nấm và đem ra chợ bán. Sau, không biết có ai chỉ, vài người thương lái từ Chợ Lớn gặp chị và đề nghị cho đến nhà chọn nấm để mua. 

Năm 1983, cả nước còn ăn độn mà chị Hai làm nấm một vốn tới sáu lời, giá một ký nấm mắc hơn một ký thịt. Nấm được người ta đưa đi bán nhiều lần, riết mà thành thương hiệu “Nấm Bà  Quẹo” một cách tự nhiên mà ai cũng biết là của chị. Bà con gần đó thấy làm ăn được quá, đến xin học nghề. Chị Hai không trồng trực tiếp nữa mà chuyển sang dạy nghề, bán meo, bán gòn. Hãng bông Bạch Tuyết biết chị Hai lấy bông gòn phế phẩm làm meo nấm, làm ăn khá nên họ chỉ bán, không cho lấy nữa. Nhờ chuyện làm nấm của chị mà cả nhà có một khoảng thời gian cả năm sống tươm tất hơn, bữa cơm đỡ ăn độn và có thịt có cá. 

Bây giờ nhớ lại, Hùng bảo có cho vàng cũng không dám ăn thịt mèo. Nhưng câu chuyện một thời như vậy, cần phải được nhớ và kể lại cho những thế hệ sau về cách cha anh họ đã tận dụng mọi cách để tồn tại, đã vượt qua khốn khó thế nào ...


Phạm Công Luận

Cuộc sống : MỘT MẨU RAO VẶT - St trên FB.

 


MỘT MẨU RAO VẶT. 

Câu chuyện này xảy ra ở Nhật Bản. Một tờ báo ở Tokyo đăng một mẩu rao giật gân về việc bán cha mẹ. Mẩu rao viết: “Bán cha mẹ: cha 68 tuổi, mẹ 66. Giá 900 yên”.

Ai đọc mẩu rao này cũng đều choáng váng. Mọi người bảo nhau: “Thật là cái thời chẳng ra gì! Đến cả cha mẹ mà cũng đem bán. Chính quyền để mắt đâu mà không thấy?” Tóm lại là cứ ồn cả lên.

Một hôm, tờ báo có mẩu rao đến tay một cặp vợ chồng trẻ mấy ngày trước vừa chôn cất cha mẹ mình bị tai nạn giao thông. Đôi trẻ mất cha mất mẹ đang rất đau buồn nên họ thấy ý muốn bán cha mẹ của những người con nào đó là một việc đại bất hiếu, bất kính. Họ kinh hoàng khi nghĩ đến sự đau đớn vật vã của bậc bố mẹ bị con đem bán. Vì thế đôi vợ chồng này quyết định sẽ mua hai ông bà và chu cấp cho họ một đời sống đầy đủ, yêu thương.

Nhưng khi họ tìm đến địa chỉ rao trên báo thì quá đỗi ngạc nhiên. Bởi trước mắt họ là một tòa nhà lộng lẫy với một sân vườn đầy hoa khoe sắc. Họ chắc mình đã nhầm nhà, nhưng cánh cửa đã mở ra và một người đàn ông lịch lãm mỉm cười chào họ.

– Chào bác, có lẽ chúng cháu nhầm nhà, nhưng theo địa chỉ trên báo thì…

– Đúng cả đấy, các cháu vào nhà đi! Người chủ nhà lạ mặt hồi hộp nói.

Ông mời khách ngồi và gọi vợ ra.

– Các cháu thấy đấy, hai bác không phải là nghèo. Nhưng hai bác không có con cái để kế thừa tài sản. Vì thế hai bác quyết định rao trên báo để tìm một người xứng đáng thừa hưởng. Hai bác biết chỉ những ai tốt bụng và nhân ái mới để ý đến mẩu rao đó. Nhưng nói thật hai bác đã bắt đầu ngờ là khó mà tìm được những người như thế… Việc hai cháu đến đây chứng tỏ hai cháu là người tốt, vì thế hai bác rất mừng được gặp các cháu.

Câu chuyện trên có thể có thật hoặc không, nhưng nó đã gửi đến cho chúng ta một thông điệp rằng: Tất cả những con người sống lương thiện đều sẽ gặp may mắn, dù sớm hay muộn. Khi chúng ta trao đi yêu thương, điều được nhận lại vẫn sẽ là yêu thương. Cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ mà ngay cả những người thông minh nhất cũng không thể ngờ trước.

(Không rõ tác giả)

Phương xa : SỐNG Ở TRÊN ĐỜI - St trên FB.

 



SỐNG Ở TRÊN ĐỜI. 

Ở một thị trấn nhỏ bang Iowa, Mỹ, có một người đàn ông giản dị tên là Dale Schroeder. Ông không phải doanh nhân giàu có, không phải người nổi tiếng, càng không phải nhà từ thiện được truyền thông săn đón. Ông chỉ là một người thợ mộc bình thường, làm việc cho chỉ một công ty xây dựng trong suốt 67 năm. Ông sống đơn giản đến mức chỉ có hai bộ quần áo chỉnh tề và 2 cái quần Jean, một bộ để đi làm, và một bộ để đi nhà thờ vào Chủ nhật. Ông sống lặng lẽ một mình không có vợ con, không có gia đình thân thích, và lái một chiếc xe cũ kỹ suốt bao năm.

Nhưng đến khi Dale qua đời vào năm 2005, cả thế giới mới ngỡ ngàng.

Trước lúc mất, Dale đến gặp luật sư của mình và nói:

“Tôi không có con cái. Tôi muốn giúp những đứa trẻ nghèo ở quê hương mình, những đứa trẻ thông minh, có ước mơ được học đại học, nhưng không đủ tiền.”

Luật sư hỏi lại ông:

– “Ông có bao nhiêu tiền để làm việc này?”

Ông trả lời một cách nhẹ nhàng:

– “À… khoảng 3 triệu đô la.”

Không ai hiểu Dale đã dành dụm bằng cách nào. Một người thợ mộc, sống giản dị, không tiêu xài gì cho bản thân, âm thầm tiết kiệm suốt cả cuộc đời, và để lại một gia tài khổng lồ chỉ với một mục đích: cho đi.

Số tiền ấy được sử dụng để lập một quỹ học bổng giúp sinh viên nghèo bang Iowa đi học đại học. Tổng cộng, 33 sinh viên đã được thay đổi cuộc đời. Họ gọi nhau là “Những đứa con của Dale.”

Trong một buổi họp mặt để tưởng nhớ ông, một trong những người nhận học bổng xúc động nói:

“Nếu không có Dale, tôi không biết giờ mình đang ở đâu. Ông ấy chưa từng gặp tôi, chưa từng biết tôi là ai, nhưng ông đã tin tưởng và cho tôi cơ hội sống một cuộc đời khác.”

Ngày nay, trong số những “đứa con” của Dale, có bác sĩ, giáo viên, kỹ sư, nhà tâm lý học, y tá… Họ không chỉ nhận được cơ hội học tập, mà còn truyền tiếp ngọn lửa nhân ái ấy. Nhiều người trong số họ đã hứa sẽ giúp đỡ những người khác, như cách Dale đã giúp họ – không cần được biết ơn, không cần danh tiếng.

Ông không nổi tiếng khi sống, nhưng trở thành huyền thoại sau khi mất.

“Bạn không cần phải là người giàu để cho đi. Bạn chỉ cần có trái tim.” – Dale Schroeder, người đàn ông giản dị đã dạy cả thế giới bài học về lòng nhân ái.

SƯU TẦM. 

Thơ : THÁNG 7 VỀ - Vũ Tuấn.

 



THÁNG 7 VỀ 

Tháng bẩy về em có biết không em?

Trời không nắng,  buồn như em ngày ấy

Mưa cứ rơi sao mà dai dẳng vậy?

Như mắt ai buồn , lệ ướt tháng năm.


Tháng bẩy về trong kí ức xa xăm

Trên phố xưa, em của thời con gái

Tuổi đôi mươi mối tình đầu vụng dại

Mưa ướt mềm trên lối nhỏ ta đi.


Tháng bẩy về ta hát khúc tình si

Lòng chợt thương Ngưu Lang và Chức Nữ 

Nhớ không em dưới hàng cây lá rủ ?

Ta làm cầu ô thước bắc qua sông


Nhớ chuyện xưa nước mắt chảy thành dòng

Đâu sông Ngân Hà sao tình ta chia cắt?

Bầy quạ ơi nối hai hàng nước mắt

Cho ta về tìm lại dấu yêu xưa.


Tháng bẩy buồn trời đổ cơn mưa

Nghĩ về nhau với nỗi niềm thương nhớ

Tại mưa ngâu cho tình ta dang dở? 

Để bây giờ da diết một niềm đau.

   VŨ TUẤN. 

Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025

Tranh vui : IM LẶNG LÀ VÀNG - Sưu tầm trên FB.

 IM LẶNG LÀ VÀNG !!!




Nét xưa : ÁO DÀI VIỆT NAM - Trương Gia Liêm.

 



NÉT XƯA. 

Tấm hình này được đăng trên tuần báo Ngày Nay (tiền thân là báo Phong Hóa) của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, số đầu tiên ra ngày 30/1/1935, với lời chú thích: “Cô Nguyễn Thị Hậu – người thiếu nữ đầu tiên mặc quần áo lối mới kiểu Lemur”....

TRƯƠNG GIA LIÊM (FB)

Tản mạn : XUYÊN TẠC BÓP MÉO... - Nguyễn - Chương Mt.-

 



XUYÊN TẠC BÓP MÉO HAY YẾU KÉM VỀ LỊCH SỬ?


   Không ít người trẻ thời nay được dạy sử kiểu này: "Vua Bảo Đại vào tháng 3-1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?). Cái này kêu bằng "Giết sử" chớ viết sử gì nổi!

   Phải nói về danh xưng "Ba miền", theo nghĩa địa lý hiện nay (Nam, Trung, Bắc) cho có đầu có đũa cái đã.

   Hồi thời vua Lê Thánh Tôn, nước Việt mới tới Phú Yên, nghĩa là chỉ có miền Bắc, và miền Trung dở dang (chưa trọn miền Trung), thành thử không có "ba miền".

   Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Đàng Trong mở rộng đến Cà Mau nhưng hùng cứ một cõi, không ăn nhập với Đàng Ngoài, thành thử cũng không thành "ba miền".

   Chỉ sau khi vua Gia Long thống nhứt sơn hà thì lãnh thổ chữ S mới xôm tụ, đề huề gồm đủ Nam-Trung-Bắc.

    Năm 1808, vua Gia Long định lại bờ cõi mà phân địa giới khu vực, ngoài khu vực kinh thành ở miền trung, chia làm hai miền bắc nam: Khu vực phía bắc gọi là "Bắc Thành", khu vực phía Nam gọi là "Gia Định Thành", bao trùm toàn miền nam gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, An Giang).

    Đến cột mốc "1832" mới thực đáng chú ý hơn.

    Chú ý thứ nhứt: Vua Minh Mạng phân ranh địa giới thành các Tỉnh, và khái niệm "Tỉnh" được xài cho đến hiện nay (không còn xài cách gọi "Đạo", "Dinh", "Trấn"... của bao nhiêu đời xửa xưa gì nữa)! 

   Suốt 187 năm, tính cho đến năm 2019, địa giới mỗi Tỉnh mỗi thời - dĩ nhiên - có thay đổi, nhập vào, tách ra, đổi tên gọi búa xua.

    Chú ý thứ nhì: Dưới thời vua Minh Mạng xuất hiện cách gọi ba miền là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, hồi đó gọi tỉ mỉ hơn: Hữu Kỳ, Trực Kỳ nằm nơi kinh đô, và Tả Kỳ - gộp chung lại là "Trung Kỳ", và Nam Kỳ là toàn miền nam gồm 6 tỉnh, nên quen gọi "Nam Kỳ Lục tỉnh": Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

   Sử sách rõ rành như vậy; Vậy mà bây giờ nảy nòi lối viết bừa phứa. Đó, "danh xưng Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ xuất hiện dưới thời Pháp thuộc, cách gọi này mang dấu ấn thuộc địa", viết bừa như vậy mà cũng viết cho bằng được!?

   Tây vào VN, họ định danh ba miền bằng tiếng Tây "Tonkin", "Annam", "Cochinchine", làm gì có miếng tiếng Việt nào ở trỏng! Trong khi đó, người Việt vẫn giữ cách gọi chính thức của tiền nhân chúng ta - bằng tiếng Việt rành rành là "Bắc Kỳ", "Trung Kỳ", "Nam Kỳ" - suốt hơn một thế kỷ, từ năm 1832 đến năm 1945.

   Viết sử sai bét như trên, của ông bà mình đem gán cho tây, cầm bằng GIẾT SỬ chớ còn gì nữa!

   Giết kiểu sau đây còn ghê hơn nữa: "Vua Bảo Đại vào tháng 3-1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?).

   Cách gọi Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ là do tiền nhân triều Nguyễn đặt ra, nói vua Bảo Đại "bỏ đi vì nó mang tính kỳ thị vùng miền" thì có khác nào vua Bảo Đại chửi tông tổ chính mình? Cái này gọi là chiêu trò "gắp lửa bỏ tay người"!

   Theo hồi ký của cụ Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại vào tháng 3-1945 có đổi sang gọi "Bộ" thay vì "Kỳ", nhưng không phải với lý do của giới "giết sử" bịa ra.

    Nhựt Bổn sau khi đảo chính Pháp, cầm trịch, và nghe nói thống sứ Nhựt Nashimura là người đổi CÁCH GỌI TRUYỀN THỐNG "Kỳ (Bắc, Trung, Nam)" của người Việt sang cách gọi "Bộ (Bắc, Trung, Nam)" hết ráo.

   Người Nhựt, sau đó, chấp thuận cho vua Bảo Đại tuyên cáo độc lập và thành lập chánh phủ riêng của người VN, tức chánh phủ Trần Trọng Kim. Chánh phủ của vua Bảo Đại vuốt mặt cũng phải nể mũi, tạm thời không đổi "Bộ" trở lại thành "Kỳ" của tiền nhân, trong khi đó dồn công sức thực hiện một số cải cách, chẳng hạn, trong giáo dục...

   Chánh phủ này chỉ hiện hữu mấy tháng ngắn ngủi, rồi dứt. Nhà nước VNDCCH, sau đó, sử dụng cách gọi "Bộ", nghe riết thành quen.

   Quen đến mức nhiều người thời nay cứ tưởng "Nam Bộ" là cách gọi... có từ thuở mở cõi miền Nam. Tưởng vậy là tưởng bở. Hai chữ "Nam Bộ" xuất hiện mới được mấy chục năm thôi giữa dòng lịch sử dài hơn ba trăm năm của đất phương Nam (với nhiều tên gọi về vùng đất này, trong đó danh xưng "Nam Kỳ lục tỉnh" có tuổi đời cách đây 187 năm, gần hai thế kỷ rồi đa).

   Thành thử nếu viết: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người Nam Bộ lúc bấy giờ", xét thiệt nghiêm túc thì câu viết như vậy là... trật. Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu sống khôn thác thiêng, nếu cụ thử ghé về dương gian ắt cụ phải giật mình, "Bây viết Nam Bộ là cái giống gì? Thuở sanh tiền, ta chớ hề nghe nói tới chữ đó. Nó... nằm ở đâu?". Nên nhớ: Cụ đồ Chiểu qua đời năm 1888, bấy giờ là Nam Kỳ, mãi 57 năm sau mới nảy nòi ra tên gọi "Nam Bộ".

   Viết cho đàng hoàng, cho tử tế, nên là: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người NAM KỲ lục tỉnh lúc bấy giờ" (rồi chú thích "nay gọi là Nam Bộ").

   Đặt cách gọi của giới làm chánh trị đời sau trùm lên đầu cách gọi của tiền nhân, có khác nào con đẻ ra cha, cháu đẻ ra ông!

Nguyễn - Chương Mt.

Thơ : NGÀY XƯA CỦA TÔI ƠI - hathuthuy.




 NGÀY XƯA CỦA TÔI ƠI!

Ngày xưa...Tan học về 

Qua đường đê quanh co

Tím màu hoa mắc cỡ

Đồng xanh trắng cánh cò.

Cỏ may ghim vạt áo 

Nhặt đầy tay vẫn còn 

Tung tăng đàn chim sáo 

Trên bờ cỏ lao xao

Lũy tre làng xào xạc

Tim tím giậu mồng tơi 

Quanh bờ ao gió hát 

Gà cục tác ổ rơm...

Giờ...Cỏ may chẳng còn

Đường bê tông thẳng tắp 

Chim hết chỗ véo von

Nhớ vườn cây đã mất

Áo dài chẳng còn bay 

Trên đường đê loang nắng

Tìm đâu ra luống cày 

Dưới chân trâu cần mẫn?

hathuthuy

Hương xưa: NHỚ... SƠN ĐÔNG MÃI VÕ - Kha Tiệm Ly.





 NHỚ … SƠN ĐÔNG MÃI VÕ 

    Quê tôi hồi ấy (1955) chưa có “ra dô” (radio), lâu lâu mới có hai nguồn giải trí chính. Một là gánh hát cải lương (hay hát bội) về, hai là “gánh hát Sơn Đông” tới.

  Mỗi khi gánh hát cải lương về, thì làng tôi như trẩy hội; người coi thì chật rạp, mà người đi chơi cũng nghẹt cả sân nhà lồng, lại kéo thêm đội quân bán nước đá nhận, mía khúc... nên không khí huyên náo khác thường. Với “gánh hát Sơn Đông” thì không đến nỗi ồn ào như thế nhưng số người tụ lại xem cũng khá xôm trò.

  Cụm từ “Gánh Hát Sơn Đông”, hay “Hát Thuật Sơn Đông” của người quê tôi quen dùng là chỉ đoàn bán thuốc “gia truyền”, xen kẻ với những màn ảo thuật hoặc biểu diễn “nghề võ” hay ca cổ.

   Khác với gánh hát thường lưu lại làng tôi dăm ba ngày; các đoàn Sơn Đông  thì chỉ diễn có một buổi rồi đi.

  Đoàn Sơn Đông đến không có “rao bảng” (*) như các đoàn cải lương, nhưng nhờ mọi người truyền miệng nhau, nên chẳng bao lâu sân nhà lồng cũng chật ních người.

   Cũng như các đoàn cải lương, các đoàn Sơn Đông cũng tùy lớn nhỏ mà cơm ghe bè bạn có khác nhau. Thường thường thì “đào kép”, đồ nghề chỉ vỏn vẹn trên một chiếc “xe hơi” cỡ chiếc bảy chỗ hay mười lăm chỗ ngồi như bây giờ.

  “Hát Sơn Đông” đến làng tôi thì nhiều, nhưng chỉ có hai “gánh” tính tới bây giờ, dù đã hơn năm mươi năm, mà thỉnh thoảng vẫn còn có người nhắc tới: Đó là “gánh” Ngô Văn Long , biểu diễn võ thuật; và “gánh” Đại Từ Bi, biểu diễn cổ nhạc và trích đoạn cải lương.

   Dù với đoàn nào, sau khi thấy bà con tụ tập đông đủ, thì “ông bầu” vẫn là người điều khiển chương trình, và luôn có một hay hai anh hề lập lại lời ông nói; nối tiếp là tiếng trống, tiếng chập chỏa cổ vũ theo. Đại khái như vầy: (chúng tôi không ghi thêm lời anh hề lập lại)

   “Thưa bà con cô bác (tùng tùng, xèng!), thưa các cụ ông (tùng tùng, xèng!), thưa các cụ bà (tùng tùng, xèng!), thưa quý bác (tùng tùng, xèng!), thưa quý chú (tùng tùng, xèng!), thưa quý cô (tùng tùng, xèng!), thưa quý dì (tùng tùng, xèng!), thưa quý anh trai (tùng tùng, xèng!), thưa quý chị gái (tùng tùng, xèng!), thưa mấy … con nít (có nhiều tiếng cười / tùng tùng, xèng!). Hôm nay đoàn quảng cáo thuốc chúng tôi hân hạnh giới thiệu loại thuốc gia truyền trị nhức mỏi….  Đánh trống lên! (Tung tung, tung! Tung tung, tung!). Cô bác nào đau cái vai (tung tung, tung!), đau cái cổ (tung tung, tung!), đau cái lưng (tung tung, tung!)…. Quý ông bà cô bác hãy mua thử về xài (tung tung, tung!), không cần mua nhiều (tung tung, tung!), Coi như trước mua vui, sau làm nghĩa! (tung tung, tung! Tung tung, tung!)…” 

    Sau màn giới thiệu công năng và hiệu quả của thuốc, thì nhiều bàn tay trong đám đông cầm tiền giơ lên “ bán tui hai gói”, “ tui một gói”, … Số người mua cũng khá đông, lúc đó ông bầu cầm micro chỉ từng người một cho nhiều người trong đoàn mang thuốc đến: “Bên nây hai gói”, “bên kia một gói!”, hoặc “bên nây mua!”, “bên nây mua!”.…

  Sau màn bán thuốc là màn biểu diễn “nghề võ” (hoặc ảo thuật, ca cổ); đây cũng là màn mà bọn trẻ chúng tôi mong đợi! Với múa đao, múa thương loang loáng; với đập cong thanh sắt vào ngực; hay với màn  nằm trên bàn chông với mấy tảng đá chồng lên ngực rồi cho một người dùng búa tạ đập lên, khiến ai cũng le lưỡi, lắc đầu.

   Và cứ một màn bán thuốc, một màn biểu diễn “nghề võ” xen kẽ nhau cho đến khi nào hết người mua thuốc thì thôi!

  Với Đoàn Đại Từ Bi, thay vì biễu diễn “nghề võ”, thì đoàn biểu diễn ca cổ nhạc sau những màn bán thuốc. Cuối cùng, “theo lời hứa với bà con”, đoàn biểu diễn trích đoạn một tuồng hát, hay “màn một” của một vở tuồng nào đó. Tôi không quên là sau khi diễn “màn một” của tuồng Thoát Ly và hẹn “lần sau sẽ diễn tiếp màn hai”, thì không biết nguyên do gì mà đoàn không trở lại nữa, điều nầy làm những bà con mê cải lương luôn ấm ức, không biết “kết cục nó làm sao!” (sau nầy nghe nói nghệ sĩ Ngọc Giàu đã từng cộng tác cho đoàn nầy)

  Thuốc bán thì thường là thuốc nhức mỏi, thuốc điều hòa kinh nguyệt, thuốc xổ lải, thuốc đau răng, thuốc ho, thuốc dán, thuốc cảm mạo…. Thuở ấy tôi còn quá nhỏ nên chưa từng mua bất cứ loại thuốc nào của gánh hát Sơn Đông, nhưng theo  cô bác nói thì thuốc uống hay lắm. Và thương hiệu “thuốc dán hiệu con rắn” và nhất là “thuốc xổ lải mộng dừa” ở làng tôi ai cũng ca tụng vì sự hiệu quả của nó.

  Trước khi lên đường, “ông bầu” lúc nào cũng cám ơn bà con với những lời lẽ rất lịch sự  và không thiếu chất văn hoa. Cuối cùng là cái gập mình tạm biệt.

  Sơn Đông mãi võ lưu diễn đến làng tôi trong khoảng thời gian từ năm 55 đến năm 60, thời gian không dài, nhưng “văn hóa Sơn Đông” ảnh hưởng không ít với người dân làng tôi: Các bài ca mà các anh hề hát để chờ khách đến đông đủ có thể nói rằng từ nhỏ đến lớn ai cũng thuộc nằm lòng như : Bắn con thỏ, nó quây xà quây/ Cẩu (cậu) bắn thật hay/ Nhìn xem, ngoài kia, chòm cây/ Đừng rục rịch coi chừng nó chạy/ Bắn nó ngay đầu/ Thôi rồi, nó chết rồi. (Điệu Sơn Đông Hướng Mã); hoặc có bài hát lời nghe… vô duyên nhưng cũng xin ghi lại cho bạn đọc xem: Gió cuốn mây bay , phừng phừng dầu lửa dầu xăng, dầu lửa dầu xăng/ Phừng lên cháy liền/ Cháy cho hết cái loài tham tàn/ Để… tiền góp ăn mắc quá trời/ Vui, khoái vui! Nhà bà hai đã cháy/ Bớ người ta/ bớ người ta/ Ngọn lửa cao quá trời/ Cái trời đất ơi! (Điệu Trong Ánh Nắng/ giờ cổ nhạc ít ai xài)

 Có một chuyện vui, xin kể hầu bạn đọc: Đôi khi các đoàn cũng “hát thuật” (ảo thuật)  cho bà con xem, mà thường là “thuật ra tiền”: Người làm ảo thuật bỏ một mớ giấy vào một hộp cây, đây nắp kín lại, dùng phù phép, gõ gõ mấy cái rồi mở ra, thì lạ chưa? Một xấp bạc một đồng (mua được 20 cục kẹo) cáu cạnh nằm dưới đáy hộp! Người ảo thuật bèn tặng cho bọn trẻ chúng tôi mỗi đứa một tờ và căn dặn: “Đây là tiền giả, mấy em để dành chứ không được xài, xài “lính” bắt ráng chịu!”. 

 Tôi là một trong những đứa trẻ hân hạnh được tặng tờ bạc đó. Cầm tờ bạc, chúng tôi mừng quýnh và… hôn vào nó lia lịa! Cất chán chê; đến một khi thèm kẹo, nhưng chúng tôi cũng không dám mang ra tiệm mua vì sợ… “lính bắt”. Giữ mãi cho tới lúc có chút trí khôn, biết nó là tiền thật, thì giá trị của nó không còn nữa!

 Đừng lầm những người bán thuốc dạo với một manh nylon trải dưới đất và vài thứ thuốc trời thần là Sơn Đông mãi võ! Những người nầy có khi vừa bán thuốc vừa  kiêm “nha sĩ” nhổ răng! Không ít trường hợp người đau cái răng nầy mà nhổ cái răng kia, hay “nhổ một cái,… tặng một cái” là chuyện vẫn thường xảy ra!

  Với phương tiện truyền thông bùng nổ hiện nay, người ta có thể xem những màn võ công cực kì đẹp mắt hơn; và những nghệ sĩ cải lương tài hoa hơn; nhưng tôi vẫn “thèm”, vẫn nhớ những lời ca và cung cách biểu diễn của những nghệ sĩ giang hồ Sơn Đông mãi võ. Nhưng không thể nào nghe được, xem được nữa rồi, vì nó đã bị khai tử từ sau năm 1975! 

Kha Tiệm Ly

Suy ngẫm : GIÁ TRỊ CỦA TỰ DO - Sưu tầm.

 



GIÁ TRỊ CỦA TỰ DO. 

Ở Kombaru, bang Karnataka ( Ấn Độ ) một buổi sáng tưởng chừng bình thường bỗng trở thành câu chuyện được nhắc đi nhắc lại như một ngụ ngôn sống động. Một con chó hoang đang bị báo rượt đuổi đã liều mạng lao qua cửa sổ hẹp của một căn phòng tắm khóa ngoài. Con báo trong cơn đói cũng phóng theo, và cả hai bất ngờ bị nhốt lại trong bốn bức tường chật chội. Khoảng không gian chỉ vài mét vuông giờ trở thành chiếc lồng vô hình, nơi kẻ săn mồi và con mồi đối diện nhau trong sự im lặng căng thẳng. Con chó run rẩy ép mình vào góc tường, đôi mắt cúi gằm, không sủa lấy một tiếng. Con báo nằm dài bất động, khoảng cách chỉ cần một cú nhảy là kết thúc tất cả, nhưng nó không lao tới, không gầm gừ, cũng không cào xé. Thời gian trôi đi, từng giờ một, rồi mười hai tiếng đồng hồ dài dằng dặc, khi đội kiểm lâm đến gây mê con báo để giải thoát, cả hai vẫn còn sống, vẫn giữ nguyên vị trí như thể thời gian đã đứng yên.

Câu hỏi lớn vang lên: tại sao một kẻ săn mồi đói bụng lại không hạ gục con mồi khi đã ở ngay trước mắt? Các nhà nghiên cứu động vật giải thích rằng loài hoang dã cực kỳ nhạy cảm với cảm giác mất tự do. Khi chúng nhận ra bản thân bị nhốt, nỗi đau ấy mạnh đến mức có thể làm lu mờ cả bản năng sinh tồn mạnh nhất – cơn đói. Trong căn phòng tắm ấy, người ta không chỉ nhìn thấy một con chó và một con báo bị giam giữ, mà còn chứng kiến sự thật trần trụi: tự do chính là dưỡng chất lớn nhất của sự sống. Cái đói có thể được lấp đầy, cơn khát có thể được giải tỏa, nỗi sợ có thể phai nhạt, nhưng mất tự do thì có thể dập tắt ánh sáng trong đôi mắt, cướp đi khát vọng sống và khiến bản năng nguyên sơ nhất cũng lặng im.

Câu chuyện ấy gợi lại một bài học dành cho con người. Hạnh phúc, sáng tạo và cả sự tồn tại đều gắn liền với tự do. Khi có nó, ta thường không nhận ra giá trị. Khi mất đi, ta mới hiểu rằng thiếu tự do, tất cả những thứ còn lại đều trở nên vô nghĩa. Con báo kia, dẫu mạnh mẽ và dũng mãnh đến đâu, cũng đã quên cơn đói trong khoảnh khắc nhận ra điều nuôi sống sâu thẳm nhất trong nó đã bị tước mất: tự do.

SƯU TẦM. 

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2025

Cuộc sống : HẠNH PHÚC CÒN MÃI... - Sưu tầm trên mạng.

 



HẠNH PHÚC CÒN MÃI BÊN TA !

Người y tá chụp bức ảnh này đã kể lại:

“Bệnh nhân này nhập viện đã ba ngày…

và không một ai trong gia đình đến thăm hay hỏi han ông ấy.”

Cô đã chụp khoảnh khắc này sau khi để ý rằng có một chú chim bồ câu cứ hai ngày lại bay đến, nhẹ nhàng đậu lên giường bệnh — bên cạnh ông cụ đang bệnh nặng, gần đất xa trời.

Về sau, các nhân viên mới biết được lý do:

Ông cụ từng ngồi mỗi ngày trên một chiếc ghế đá gần công viên cạnh bệnh viện, và luôn chia sẻ những mẩu bánh vụn cho chú chim bồ câu ấy.

Và giờ đây, giữa lúc cô độc và yếu đuối nhất,

chính con chim nhỏ đã quay trở lại… để thăm ông.

🕊️ Đôi khi, động vật còn mang trong mình nhiều tình thương và lòng biết ơn hơn cả con người. ❤️

ST.