Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

Truyện năm Mậu Tuất : HAI CON CHÓ CỎ - Huỳnh Văn Huê.




Truyện năm Mậu Tuất 2018 : HAI CON CHÓ CỎ
( ... viết theo lời kể thú vị của một bạn cà phê) 

Người mình gọi là chó cỏ vì đây là giống chó... "nội địa" không tên tuổi, nhỏ con, dễ nuôi và cũng rất... bình thường.
Ông Chín được người quen cho không hai con chó vào lúc chúng nó đã... lớn rồi. Tuy nói cho không nhưng ông cũng gửi chút tiền tương xứng với giá thị trường. Ông nói tránh đi là để trả tiền đã nuôi nấng và thêm hai ... sợi dây cột bằng kim loại mới tinh đang xích vào cổ bọn chúng. Đây vì chủ cũ là người quen và cũng tốt bụng, người ta tin rằng ông sẽ nuôi chúng tử tế chứ không cho vào quán... thịt cầy. Âu đó là cũng cái tình của người chủ cũ vậy.
Người này còn nói với ông rằng sở dĩ họ đem cho vì hai con chó này hay cắn phá giày dép trong nhà lắm!
Ông Chín đâu thiếu kinh nghiệm, ông thừa biết mấy con chó này đã qua độ tuổi mọc răng nên đâu có ngứa nướu, đâu cần phải gậm nhấm phá phách!!... .
Quả đúng vậy, về sau ông tìm hiểu thêm và biết được là tụi nó hay chạy theo cắn người đi đường, có lần người ta bị rách quần, trầy trụa và té xe nữa ! Hậu quả ai cũng biết, người chủ trước đây phải bồi thường không ít !..
*    *    *
Về ở nhà ông Chín rồi, nhờ chung quanh có tường rào, có cổng cửa kín đáo nên hai con chó vô phương trốn thoát. Ông Chín cũng biết vậy, chó đã lớn khôn rồi rất khó đổi chủ, có trường hợp chó đã vượt hàng chục cây số để tìm về chủ cũ là chuyện từng xảy ra... .  Vì vậy ông "trấn" tụi nó ở phần sân sau nhà, tiếp giáp bờ sông. Đến bữa ăn, chính tay ông đích thân đem ra cho tụi nó ăn. Tội nghiệp, hai con chó lấm la lấm lét, chờ ông trở vô nhà mới dám đến ăn thức ăn. Coi bộ ông khó gần và thu phục được hai con chó thuộc loại... kỳ khôi này rồi!
Ngày qua ngày, cũng dễ đến cả năm sau... . Có lần ông Chín ra phía sau bờ sông câu cá, sơ ý nên ông trợt chân té ùm xuống sông. Đối với ông thì có ăn thua gì, hồi còn học tiểu học ông đã không biết bao nhiêu lần bơi qua bơi lại ngang qua khúc sông này. Hôm đó coi như ông tắm sông sớm chút vậy thôi... .
Nhưng thật lạ lùng, thường ngày khi ông cho ăn hai con chó dù rất háu ăn nhưng vẫn đứng lảng tránh ngoài xa chờ đợi cho đến lúc ông quay lưng... . Vậy mà trong tình huống (tưởng là) nguy nan này cả hai con chó đều đồng loạt nhảy xô đến bến sông. Chúng sủa lớn và rít lên từng hồi. Tụi nó làm vậy là để báo động cho mọi người chung quanh và trong nhà. Khôn quá đi chứ !...
Ông Chín tỉnh queo leo lên bờ, cố tình nói lớn như để chung quanh (và có lẽ trong đó có... hai con chó nữa) nghe:
- Có sao đâu, không sao đâu. Chỉ ướt cái quần ngắn và cái áo thun thôi mà !
Xong ông cười và vuốt đầu hai con chó. Trong "tai nạn" bất ngờ, có thể khi thấy chủ không sao và đang... vui cười thân tình. Hai con chó mất cảnh giác đứng yên vẫy đuôi mừng chủ thoát nạn và lại còn sủa thêm ăng ẳng những tràng tiếng sủa nhỏ mừng rỡ'... .
Chủ nhà và lũ chó thân thiện với nhau từ đó... .
Đến lúc này ông Chín mới nghĩ tới chuyện đặt tên cho hai con chó. Thôi thì một con có bộ lông màu vàng sậm được ông đặt tên "Tây" là Rao và con màu nhạt hơn ông đặt là Lô.  
Từ cái ngày bị té sông đó, ông Chín được hai con chó quấn quýt dữ lắm. Lúc ông ra bờ sông nằm trên chiếc ghế bố để hóng gió thì hai con chó mỗi con nằm một bên. Chúng nó cũng... hóng gió như chủ và tỏ vẻ vui sướng hảnh diện lắm. Biết rằng lúc này hai con chó đã quen thân và chấp nhận mình làm chủ rồi. Ông Chín thử cho tụi nó đi ra sân trước nhà. Đúng như ông suy đoán, tụi nó không tìm đường trốn đi đâu nữa. Tụi nó đã chấp nhận ông là một người chủ mới rồi.
Không ngờ vì hai con chó được ra phía trước mà có... chuyện rắc rối !
Nhà hàng xóm cách mấy căn, vì giàu có nên họ cũng phải nuôi chó xịn để cho xứng với đẳng cấp (!?) Con chó này không biết rặc giống hay đã lai với giống chó gì rồi mà nó thật to lớn và... dữ tợn !!! Hai con chó cỏ của ông Chín gộp lại cũng chưa bằng nửa con chó này.Bộ lông con chó này rậm và dày, nhất là phần đầu còn rậm hơn phần thân, xù lên trông giống như bờm sư tử. Ông Chín đoán có lẽ nó có đến hơn ba phần tư "máu" giống chó ngao Tây Tạng. Cũng chính vì là giống chó phương Bắc với khí hậu lạnh nên nó sở hữu bộ lông như thế là phải rồi.
Nếu theo lẽ phải, nhà ai nấy ở thì đâu có chuyện đất bằng dậy sóng!? Ác cái con chó ngao hàng xóm ỷ to con lớn xác, muốn làm bá chủ hay sao đó. Khi người chủ nhà giàu cho nó ra đường... "xả thải", tiếp theo nó cứ qua trước cổng nhà ông Chín đánh dấu lãnh thổ bằng cách đái vào hai cây cột của cổng nhà!! Hành động này suy ra theo... "công pháp quốc tế" cũng tương tự như hành động dời cột mốc biên giới của một quốc gia chứ chẳng phải chơi.
Dĩ nhiên hai con chó Rao và Lô của ông Chín cũng đâu có vừa. Tụi nó xông ra, quyết liệt phản đối và xua đuổi kẻ xâm lấn lãnh địa qua... hàng rào. 
Thôi kệ, chó với nhau mà, chúng sủa qua sủa lại với nhau chán thì thôi. Khi nào rảnh thì chủ của mỗi bên kêu chó của mình về. Còn nếu không thì khi sủa đã đời rồi tụi nó cũng tự động rút im... . Có hàng rào ngăn cách rồi... . 
*    *    *
Vào một ngày... . Người lớn trong nhà ông Chín đều có việc đi vắng. Chỉ đứa cháu nhỏ ở nhà.
Có nhân viên ghi chỉ số đồng hồ nước vào nhà. Tai hại vô cùng, lúc trở ra người ấy chỉ khép hờ cánh cổng mà không gài chốt. Đứa cháu trong nhà thì không để ý. Thế là có chuyện lớn xảy ra... .
Con chó ngao khổng lồ cậy thế to xác, táo tợn và ngang ngược xông vào sân. Trước hành động xâm lấn của "kẻ thù truyền kiếp", hai con chó cỏ không hề nao núng, chúng đồng loạt xông ra xua đuổi.
Tuy một chọi hai nhưng con chó ngao vẫn chiếm ưu thế. Chuyện chó cắn nhau ở xóm này là chuyện... bình thường nên hàng xóm chung quanh nào mấy ai đoái hoài hay quan tâm ! Đứa cháu ở nhà ra xua đuổi cũng không kết quả, nó chán nản bỏ vào trong nhà... .
Cuộc chiến đấu càng lúc càng khốc liệt... . ( còn tiếp )

HUỲNH VĂN HUÊ (1/2018 )

Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

Tản mạn NHỎ MAI - Hoàng Duy Liệu.




NHỎ MAI.

Sau khi làm quỷ sứ quỳ gối dang tay mũi dãi lòng thòng, rách mất vài cái quần xà lỏn xanh đỏ ở trường thầy Chín được hơn một năm, tui được đi học ở trường tiểu học công lập của tỉnh. Trường Tiểu Học Nguyễn Du.

Mỗi buổi sáng từ nhà tui ở gần nhà ga Biên Hòa, tui lơn tơn xách cặp đi ra đầu phố chỗ có rạp hát Biên Hùng và quán hủ tiếu Cây trứng cá mà ông nội tui là chủ đất, tui thường ghé qua cái xe bánh mì của dì Chín (hỏng phải vợ thầy Chín đâu nha!) ở trước quán hủ tiếu đưa cho bả một đồng, đổi lấy một ổ bánh mì thịt hay xíu mại nóng hổi, vừa đi vừa gặm, mắt láo liên canh chừng không cho thằng nào rề rề tới gần xin cắn miếng. 

Không biết mấy anh "pilot" có còn nhớ đến mấy thằng nhóc con ngày xưa thường hay đứng quanh xe bánh mì đưa mắt nhìn say mê mấy cây súng P38 nho nhỏ với sợi dây nịt có gắn thêm con dao cùng những viên đạn sáng chói màu đồng mà mấy anh đeo xề xệ ngang hông đó hay không. Tui là một nhóc tì trong đám đó, sáng nào cũng đứng nhìn mấy anh lính rồi đếm thầm coi còn bao năm nữa thì mình sẽ được đi lính để có súng đeo cho oai vệ như vậy. 

Bánh mì dì Chín ngon lắm, mấy anh lính Không Quân thường sau khi ăn hủ tiếu xong còn mua thêm vài ổ đút vô cái túi dưới chân để dành ăn trưa ở trên trời. Đôi khi tui còn thấy vài anh lính Biệt Động Quân hay Nhảy Dù mua cả chục ổ nhét đầy ba lô thảy lên chiếc xe jeep có cái cần ăng ten dài thoòng được uốn cong cột về phía trước sửa soạn cho một chuyến hành quân nào đó. 

Dì Chín tối ngày bận rộn làm bánh mì chắc là không bao giờ nghĩ đến cái chuyện những ổ bánh của mình đã theo bước quân hành mà đi bao vùng "rừng núi sình lầy" hay là bay cao tận "không gian hằn nỗi nhớ". Không biết Dì Chín có bị đi tù cải tạo về cái tội tiếp tế lương thực cho địch quân hay không, dám lắm chớ. 

Bây giờ ở xứ Mỹ này tui ăn đủ thứ từ bánh mì Ba Lẹ, Hương Lan, Hà Nội đến Lee Sandwich nhưng vẫn không thấy ngon bằng bánh mì dì Chín hồi đó. Chỉ cần đứng kiễng chân nhìn dì Chín dùng cái muỗng nhấn nát cục xíu mại hay là con cá mòi rồi nhẹ nhàng ban ra trên khúc bánh mì với cái màu vàng đỏ óng ánh của nước sốt là đã đủ chảy nước miếng rồi. Đó là chưa kể đến 2, 3 miếng ớt mỏng đỏ hỏn nằm nghêng ngang cay lè kế bên một miếng dưa leo tươi mát. Chắc tại hồi đó nhà tui nghèo quá, chứ không như bây giờ, tui giàu lắm, tui ăn bánh mì mua 2 tặng 1 thay cơm hàng ngày. 

Cũng như những thằng nhóc khác, tui thường phải đi bộ đến trường nhưng sau vài tuần vừa đi vừa gặm bánh mì tui nhập bọn dân chơi xe bò. Băng qua đường đến trước Ty Cảnh Sát Biên Hòa tụi tui thường đứng đợi coi có chiếc xe bò nào còn trống thì leo lên đi ké đến trường. Ở đó mỗi buổi sáng sớm thường hay có một vài chiếc xe bò lọc cọc đi ra chợ Biên Hòa chở hàng về quê xa. Giờ nhớ lại, mấy ông già đánh xe bò thời đó hiền queo, mấy thằng nhóc tui leo lên nhảy xuống la hét om xòm ỏm tỏi mà vẫn không la ó rầy rà một tiếng nào. Thỉnh thoảng quá lắm thì chỉ: 
- Ngồi xuống! Coi chừng té mậy! 
Ông nào cũng có cái roi mà chỉ để quất nhẹ lên mông mấy con bò.

Đi học bằng xe bò sướng lắm! Hãy nghĩ tới cái cảnh trong cái buổi sáng mát mẻ đầu ngày một mình đứng trên chiếc xe bò vừa ăn bánh mì nóng hổi ngon lành vừa đưa mắt ngắm nhìn con phố nhỏ đang trở mình thức dậy thì sẽ thấy là không thua gì nếu đem so với chuyện đi xe "cable car" qua phố San Francisco. Nơi đây làm gì có cái cảnh như một tiếng "két" vang lên từ cánh cửa sắt vừa hé mở, cái bánh trước của một chiếc xe đạp ló ra theo sau là một tà áo trắng nữ sinh thanh thản hiện ra. Hay là cái cảnh một bà mẹ vừa bới đầu vừa đuổi theo một thằng bé con trần truồng chạy lăng quăng cười hắc hắc trên lề đường. 

Tui thích nhất là bữa nào hên mà nhảy lên được xe bò của ông Ba Râu, ổng có bộ râu cá chốt trắng phau, 2 bên vểnh lên như 2 cái sừng trâu mà ổng thường hay đưa tay lên vuốt vuốt, tui giờ cũng có râu mà sao nó khộng bao giờ vểnh lên cho dù tui xài hết cả chai Gel . Trên xe của ông Ba Râu tui có quen được một người bạn thân tình, con Mai, cháu nội của ổng, sáng nào nó cũng theo ổng đem xe ra chợ Biên Hòa chở hàng về tận rừng Tân Phong. 

Nhỏ Mai lớn hơn tui một tuổi mà vẫn chưa đi học nên tui dạy cho nó tập đánh vần ê a sau khi chia cho nó nửa ổ bánh mì, bù lại thỉnh thoảng nó cho tui mấy con dế than hay dế lửa gáy re re trong cái hộp quẹt diêm. Con Mai còn bức tóc làm cho tui mấy cây que dế. Ngồi bên tui con Mai hỏi lung tung đủ thứ chuyện ngớ ngẩn như là mày có má không? Em mày có chơi u mọi hay không ? Tối mày ngủ với ai? v. . . v. . . làm cho tui cứ hay nạt nó sao mày cứ hay hỏi ba cái chuyện mà ai cũng biết. Nó không trả lời mà chỉ ngồi im vân vê cái chéo áo. 

Nhỏ Mai thường đưa mắt buồn bã nhìn theo khi tui phải ôm cặp nhảy xuống khi xe đến gần cổng trường Sông Phố. Chỗ đó đi về bên phía mặt là ra chợ, phía trái là trường tui. 

Có lần nó nói: 
- Phải chi tao được đi học với mày.
Tui nhớ là đã phán lại một câu xanh rờn:
- Mày còn ngu quá sao đi học được. 
Đó cũng là lần cuối cùng tui gặp con Mai. Nghe nói ông Ba Râu bị bắt đánh xe bò vô rừng chở cái gì cho ai đó một tối rồi không bao giờ trở lại. Mai ơi ! cho tao xin lỗi mày, bây giờ mày ở nơi đâu? Mấy con dế mày cho đã chết từ lâu nhưng hình như tao vẫn còn nghe tiếng gáy đâu đây.
Hay là tiếng than khóc tận đáy lòng tao? 

                                            0o0

Mỗi buổi sáng, từng chiếc rồi lại từng chiếc xe bò chậm rãi cọc cạch leng keng đi ngang qua trước mặt, tui cố chạy đến kiễng chân ngó vô góc thùng xe để tìm con Mai cho dù từ xa đã biết là không phải xe của ông Ba Râu. Biết làm sao hơn khi tui muốn kiếm nó, tui muốn ngồi xuống mà nói với nó rằng: 

- Mày đừng có buồn, tao đi học được cái gì rồi sẽ chỉ lại cho mày, rồi mày cũng sẽ biết đọc như tao thôi. Tao cũng sẽ dạy mày làm tóan nhân để mày khỏi phải đếm hết ngón tay tới ngón chân. Tao sẽ… Ôi, nhiều điều tui muốn nói với nó để chạy cái tội đã nói nó ngu hôm trước. 

Mà cả tuần nay rồi tui vẫn không thấy nó lẫn ông Ba Râu, ngày nào cũng chỉ ăn đến nửa ổ bánh mì thì cảm thấy như có cái gì nghèn nghẹn trong cổ họng không nuốt vô được nữa… Tui lặng lẽ gói lại bằng tờ giấy báo; cột chặt lại bằng sợi dây thung, dấu kỹ vô cặp hy vọng biết đâu chút nữa sẽ gặp con Mai mà chia cho nó. Tui biết có khi tui đã khóc khi gói lại nửa ổ bánh mì. 

Tui nhớ nhỏ Mai vô vàn. 

Trong lớp, bất kể roi dài thước ngắn của cô giáo, tui ráng vẽ cái mặt tròn quay với 2 cái đồng tiền lõm vô trên gò má, cái đầu tóc bù xù có khi được ai đó cột lại bằng sợi dây thung xanh đỏ hai bên làm cho cái đầu nó trông như là cái trống lắc lắc kêu bụp bụp, cái đồ chơi của con nít, tui còn cho nó mặc một bộ đồ mới trong hình, thay cho bộ đồ bộ thiệt của nó có in mấy cái bông gì đó đã cụt ngủn sờn vai, 2 cái túi trước bụng đã biến đi đâu mất chỉ còn lưa thưa mấy sợi chỉ, mấy hột nút thì đủ màu đủ cỡ, có vài hột hơi bự hơn cái khuy làm nó cài vô không được đành để lòi cái bụng đen xì ra. 

Tui đoán hình như nó chỉ có một hai bộ đồ để mặc khi đi ra tỉnh mà thôi, khi ở nhà chắc nó ở trần dang nắng suốt ngày trên ruộng nên cái bụng của nó có 2 màu khác biệt, trên đen dưới trắng mà lằn ranh là cái lưng quần. Nó là con nhà nghèo mà ! Má tui nói vậy khi nghe tui kể lại sau này. À ! Mình nghèo thì cũng có người nghèo hơn ha! 

Thì cũng phải thôi! 
Nhỏ Mai mồ côi cả cha lẫn mẹ, chỉ còn có ông Ba Râu là thân quyến, ổng kể rằng ba nó đi lính gì đó rồi đi luôn trước khi nó ra đời, má nó cũng đi đâu mất sau khi sinh ra nó độ vài tháng. Ổng chép miệng:
- Hồi đó bà vợ tui còn sống nên cũng đở khổ, chớ mình tui như bây giờ chắc chết! 
Tiếng chết của ổng thường hay kéo dài lê thê nghe sao buồn diệu vợi như có người thân chết, tui nhớ là như vậy. 

Tui vẽ nó đứng dang hai chân hai tay, cặp mắt tròn vo long lên dữ dằn trên sàn xe bò ráng sức xua đuổi mấy thằng nhóc đang tính trèo lên xe của nó, cố giữ chỗ cho tui, cái chỗ ngon lành nhứt ở tận phía trước, ngay sau lưng ông Ba Râu mà nó đã cẩn thận đặt một cái bao bố nhỏ có dồn thêm chút rơm màu vàng. Cứ y như là Xe Bò "First Class." Nó thường hay nói "tao thay rơm hôm qua cho mày rồi đó !" mỗi khi tui ngồi lên cái bao bố đó. 

Vậy mà … Giờ mày ra sao Mai? Tao lại muốn khóc, mày có biết hay không? 

Sau này khi lớn lên tui lại phải có đôi lần buồn rầu nhớ thương nhỏ Mai, như khi đọc truyện của ông Xuân Vũ trong cuốn 2.000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi, có chương nói đến những người đánh xe bò ở vùng Tân Phong bị giữ lại trong rừng năm này qua năm khác, không cho về với vợ con , gia đình để vận chuyển lương thực cùng súng đạn cho đến khi... tàn cuộc chiến. À! Thì ra thế! Quả đúng như một ông đánh xe bò khác đã kể cho tui nghe hồi đó. 

Nhưng còn nhỏ Mai? 

Tui đọc mà tưởng như đang thấy ông Ba Râu ngồi ủ rũ bên cạnh chiếc xe bò mặt cúi gầm, trong lòng lo cho con Mai đang ngồi một mình trong cái chòi hoang vắng khóc lóc thảm thương giữa đêm khuya sau khi người thân yêu cuối cùng trong cuộc đời ngắn ngủn của nó bị bắt đi. Rồi ai cho nó ăn? Tiền đâu nó mua gạo nấu cơm? Hay là nó đã lang thang vô rừng sống với khỉ như trong phim Tarzan trong rừng thẳm? Tui cứ suy đoán mông lung khổ sở cả một đời. 

Kỳ lạ thay, tui bỗng dưng cầu Trời khấn Phật cho họ bắt luôn con Mai để nó khỏi phải chết đói, chết buồn. Hay phải lấy chồng khỉ đột . Sao mà nghe như chuyện nô lệ thời trung cổ , ông cháu người ta đã nghèo nàn, quê mùa chỉ biết đánh xe bò kiếm miếng cơm manh áo vậy mà cũng chẳng được yên thân, Chúa, Phật, ông Trời bận đi vắng nơi đâu? 

Mới gần đây thôi, khi đọc chuyện của nhà văn nổi tiếng Vĩnh Hiếu viết về những ngày cuối cùng ở Nha Trang, tui lại ứa nước mắt khi đọc tới đoạn có bà già bán giấy số dẫn đứa cháu gái nhỏ đến năn nỉ xin ảnh giúp cho một ngõ thoát thân trên chiếc trực thăng cuối cùng vào độ 1975. Tui lại thấy gương mặt buồn bã của nhỏ Mai trên cái màn hình. Tui muốn chửi thề thật lớn, thật to, muốn chém đứt tất cả những gì trước mặt, xung quanh bằng cây kiếm Nhật treo trên tường chẳng bao giờ lấy xuống tự bao năm qua. 

Nhỏ Mai có tội tình chi? Một đứa con gái nhỏ mồ côi thâm tình bằng hữu. 

                                                      0o0

Vì ráng đứng kiếm nhỏ Mai mỗi sáng mà tui thường trễ học, bị cô giáo lớp Năm lấy thước đánh đỏ cả hai bàn tay, tuy là đau nhưng tui không ngán, dầu gì cũng đã qua hơn một năm huấn nhục tại trường thầy Chín, nhằm nhò gì ba cái trò lẻ tẻ này. Lớn lên thêm chút nữa, tui đánh lộn có tiếng không những vì không sợ đau mà phần lớn là nhớ đến nhỏ Mai. Tui vừa khóc vừa đánh.

Bị cô giáo đánh, tui không khóc nữa chỉ hơi khẽ hít hà nhảy tưng tưng, thò tay này, thụt tay kia và có lẽ hơi mếu máo một chút nhưng lại rất buồn mỗi khi bị cô đánh xong, là vì ngày nào còn bị đánh là ngày đó chưa gặp lại được nhỏ Mai. Phải chi cô cứ đánh cả một ngày cũng được, chỉ cho tui gặp lại nó. Lần này tui đã tính là sẽ xin với má tui cho nó về ở nhà tui để rồi mỗi sáng hai đứa cùng đi học. 

Tui còn có thủ sẵn một cục xà bông Cô Ba trong cặp mà tui xin của chị Gấm, chị giúp việc nhà tui , định cho nó vì tui nhớ có lần nó nói tao chưa có gội đầu bằng xà bông bao giờ. Cũng vì cục xà bông này mà tui phải ngồi chơi với muỗi, canh cửa mỗi đêm cho chị Gấm chạy ra ngoài vườn mảng cầu hẹn hò tình tự với anh Năm tài xế xe be. Hên cho tui là chỉ độ vài tháng sau thằng chả bị bà vợ ở dưới quê lên nắm cổ kéo về như bò cái kéo khúc cây sau khi chơi nhau bằng đòn gánh với chị Gấm nhà tui một trận kinh hồn aó rách, quần bay, nước chảy te tua ngoài giếng nước. Uổng quá ! 

Bữa đó tui đi học, chiều về nghe nhỏ em gái kể lại mà tiếc hùi hụi, nghe còn thần sầu hấp dẫn hơn là đọc truyện Cô Gái Đồ Long. Em tui nói một bên là chi Gấm nhà tui chơi võ Bình Định múa đòn gánh vù vù đập vô đầu bà kia kêu cốc cốc, còn bà kia thì hình như là có học gồng Cao Miên đi xà quyền đá tét mất cái quần chị Gấm. Trời ơi đã quá mậy. 

Mặc kệ cho chị Gấm đang ngồi khóc tỉ tê ngoài vườn trong khi má tui đang ca lớn thiên trường khúc “Thật là đáng tiếc, “ “Tao đã dặn “ ở bên cạnh, ông già tui chọt gậy bánh xe: 
- Ờ ! thì bà đang “dặn” radio đó. 
Ông già tui nheo mắt. Tui còn nhớ rõ ràng ổng còn nói với má tui:
- Thôi bà ơi ! Tui cũng tiếc vậy ! Phải chi tui về sớm một chút thì đỡ (hay là đã ) biết mấy ...... 
Giờ thì tui đã biết ba tui tiếc cái chi. May mà má tui trong cơn nóng giận không để ý đến cái tài ăn nói của ba tui ngày đó. Ổng là lính đa tình .

Để rồi một sáng kia, đợi hòai đợi mãi mà chẳng có chiếc xe bò nào ngang qua, tui quên mất chuyện đi học, mãi cho đến lúc thấy mấy ông Cảnh Sát thay ca, nhìn lên trời chẳng còn chiếc máy bay nào bay ngang qua, quán hủ tiếu vắng teo, tui mới biết là đã quá trễ giờ đến trường. Cho đến bây giờ cũng vẫn không hiểu tại sao nhưng hôm đó tui đã làm một chuyện thật là vĩ đại trong đời, tui không thèm đi học nữa lại có thêm cái tật đôi lúc lầm lì khó hiểu . 

Hoàng Duy Liệu
(Hồi Xưa Tui Đi Học) - Chương II
Cám ơn tất cả những ai đã sửa lỗi chánh tả dùm tui.

Chủ Nhật, 21 tháng 1, 2018

Thơ CẢM XÚC TRONG ĐÊM - Đỗ Mỹ Loan.



CẢM XÚC TRONG ĐÊM






Đêm dịu dàng… như bản tình ca
Bên cánh cửa khép hờ ta ngồi đó
Thoảng đâu đây hương thơm lá cỏ
Gió vô tình ghé tựa bờ vai

Đêm thênh thang… nỗi nhớ trượt dài
Vẫn còn đây ngọt ngào bao kỷ niệm
Nào phải xa xôi tận chân trời góc biển
Quanh quẩn bên ta lặng lẽ không rời

Đêm nồng nàn… hồn bay bổng chơi vơi
Con chữ lao xao bốn bề tỉnh thức
Tứ thơ ùa về rộn ràng giấy bút
Mười ngón tay trơn níu ánh trăng vàng

Đêm mơ màng… cùng thơ vận lang thang…

ĐỖ MỸ LOAN - 18/1/2018

Chuyện vui AI CÓ LỖI? - Sưu tầm trên facebook.






AI CÓ LỖI? 

Nhân viên an ninh trong sở thú bắt 4 đứa nhỏ tới giao cho sở cảnh sát. 
Thưa ông cảnh sát trưởng! Mấy đứa trẻ này phá phách trong sở thú! 
- Này mấy cháu! Nói cho bác biết là các cháu tên gì và đã làm điều gì sai trái trong sở thú vậy? 
- Dạ cháu tên là Tí, cháu quẳng đậu vào chuồng voi! 
- Cháu tên Tèo, cháu quẳng đậu vào chuồng voi! 
- Cháu là Tin, cháu cũng quẳng đậu vào chuồng voi ạ! 
Ông cảnh sát trưởng thấy đứa còn lại đứng xanh mặt thút thít khóc bèn hỏi: 
- Trong đời ai cũng phạm sai trái! Cháu đừng sợ, hãy nói cho bác biết cháu tên gì nào? 
- Dạ, cháu tên Đậu!

Sưu tầm trên FACEBOOK 

Thơ NGẠI... BUỐT CON TIM- Văn Châu.


Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2018

Khảo cứu SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC... (p. cuối) - Sưu tầm trên mạng.



SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC SÀI GÒN XƯA. 

Ở Sài Gòn địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ nhắc tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này hồi trước bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có cầu, có chợ, có phường 100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng ngắc ngứ lắm! Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 - 1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác. Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng chuyện này không thuyết phục mấy.

Hai là Ông Thượng. Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông Thượng thì biết ngay là Công viên Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi bọn trẻ,chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát bội.

Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố , hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
Coi cọp, xuống Thị Nghè 
Ăn ve, lên Ông Tố
.

Ve mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào, châu chấu vậy. Không rõ ông Trương Vĩnh Tố có làm quan chức gì, chỉ biết ông ở gần đấy và khu đất cao (gọi là giồng) có lẽ là của ông chăng?

Bốn là Ông Tạ.  Là chợ mang tên một thầy thuốc nam nổi tiếng Trần Văn Bỉ (còn gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ còn là vùng đất thuộc các phường 3, 4, 5, 7 của quận Tân Bình. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe đến chợ Ông Tạ là gợi ngay đến các hàng thịt chó treo lủng lẳng cả chục con thui vàng rực, coi bắt mắt lắm.

Năm là Ông Thìn.  Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai xã Đa Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng Ông Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã chiến năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.

Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là Lăng Ông (dân thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được xây trên khuôn viên khá rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này về sau xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11-1988, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Lăng Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch. 

Ở Sài Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
Tên đường chỉ duy nhất có Ông Ích Khiêm.  Gắn với tên ông còn có rạch, cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba rạch bến Trâu và Tân Hóa tới rạch Lò Gốm); rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch Ông Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông Nghĩa ở xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu.
Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông Nhiêu, cầu Ông Thìn, cầu Ông Tiều... Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình Hưng dài đến ba cây số.
Về vài địa danh mang tên thảo mộc.
Ở Việt Nam có rất nhiều địa danh mang tên thảo mộc. Trong khuôn khổ bài viết nầy chúng tôi chỉ đề cập đến Gò Vấp, Củ Chi, Trảng Bàng, Giồng Trôm, Thốt Nốt và Bạc Liêu mà thôi.
GÒ VẤP
Trước năm 1975 Gò Vấp là một quận của tỉnh Gia Định gồm có 8 xã. Quận lỵ Gò Vấp cách Sài Gòn 10km. Đó là nơi có nhiều thành quách (An Nhơn, Hạnh Thông Tây), vườn rau cải (Hạnh Thông Tây), ruộng rau muống (Xóm Mới), vườn dừa (An Phú Đông, Bình Triệu), vườn sầu riêng, măng cụt (Nhị Bình), vườn bưởi (Thạnh Lộc) với hai xã đông dân cư và phồn thịnh về kinh tế và thương mại gần Sài Gòn: Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây.
Sau năm 1975 Gò Vấp là một quận trong thành phố. Diện tích Gò Vấp bấy giờ thu hẹp chỉ còn 20 km2. Các xã Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây trở thành quận Bình Thạnh, Nhị Bình, Thạnh Lộc, An Phú Đông sát nhập vào quận Hóc Môn. 
Gò Vấp là quận đông dân cư. Đó là nơi có nhiều giáo đường và chùa chiền. Viện Mồ Côi và bịnh viện Cộng Hòa nằm trong quận nầy. Sau năm 1954 Gò Vấp nổi tiếng về việc sản xuất pháo (Xóm Mới).
Địa danh Gò Vấp do tên của cây vấp mà ra. Tên khoa học của cây vấp là Mesua coromandelina, Mesua ferrea, Mesua nagassanium... thuộc gia đình Clusiaceae hay Guttiferae. Loại thảo mộc nầy có nhiều ở Ấn Độ, Sri Lanka và các quốc gia Đông Nam Á. Người Ấn Độ gọi là nagkesa; tiếng Phạn (Sanskrit): nagakesara; Khmer: bos neak. Người Anh gọi là cobra saffron vì theo tiếng Phạn naga có nghĩa là con rắn và chữ saffron gợi lên màu vàng của cây vấp. Tiếng anh cũng gọi cây vấp là iron wood tree hay Ceylon ironwood (thiết mộc Tích Lan).
Cây vấp cao từ 15 - 20m. Gỗ màu vàng rất cứng, ngâm duới nước không bị rã mục. Lá cây vấp nhọn, thon, dài trông rất đẹp. Lá non màu đỏ bầm. Hoa to, màu trắng bốn cánh với nhụy vàng. Hoa có hương thơm. Trái có hột dùng để lấy dầu.
Gỗ cây vấp dùng để làm nhà, ngạch đường rầy xe lửa rất tốt. Dầu lấy từ hột cây vấp dùng để thắp đèn. Cây vấp là quốc mộc ở Sri Lanka (đảo Ceylon: Tích Lan), nơi cây vấp được gọi là nahar.
Người ta dùng hoa, rễ và hột cây vấp để làm thuốc trị bịnh. Hoa được dùng để trị táo bón, đau bụng, phong hủi, ho, sốt, bất lực sinh lý. Dầu dùng để trị các chứng bệnh ngoài da, trị ghẻ, tê thấp. Dầu cây vấp có nhiều ác xít béo: ác xít stearic. oleic, linoleic và arachidic. Hoa khô dùng để trị bịnh trĩ, kiết lỵ. Hoa tươi trị ngứa, kinh nguyệt, khát nước quá độ (tiêu khát; tiểu đường), ra mồ hôi. Rễ dùng để trị rắn cắn. Lõi cây vấp có nhiều xanthones: euxanthones, mesuaxanthones A, mesuaferrone B. Nhụy hoa có hai bioflavonoids: mesuaferrone A và mesuaferrone B và ác xít mesuanic. Vỏ có ferruol B và triterpenoid gutiferol.

CỦ CHI
Trước năm 1954 Củ Chi là một quận trong tỉnh Gia Định. Sau năm 1954 quận nầy nằm trong tỉnh Bình Dương một thời gian ngắn. Khi tỉnh Hậu Nghĩa được thành lập, Củ Chi nằm trong tỉnh tân lập nầy. Trước năm 1975 Củ Chi có 14 xã.
Sau năm 1975 Củ Chi là một quận ngoại thành của thành phố. Quận Củ Chi nằm cách Sài Gòn 40 km. Diện tích quận Củ Chi lối 435 km2. Đa số dân đều sống bằng nghề nông và đan thúng rổ, làm vật dụng bằng mây. Củ Chi được biết đến nhiều trong chiến tranh vừa qua. Vùng nầy nằm trong vùng Tam Giác Sắt. Bộ tư lệnh Sư Đoàn 25 đóng tại đây. Sau năm 1975 tân chế độ gọi Củ Chi là Đất Thép Thành Đồng và biến Địa Đạo Củ Chi thành vùng du lịch.
Củ Chi là sinh quán của Trần Minh Tiết, Chánh Án Tối Cao Pháp Viện VNCH; Phan Văn Khải, cựu thủ tướng CHXHCNVN.
Địa danh Củ Chi phát xuất từ tên gọi của cây củ chi tức mã tiền. Cây củ chi hay mã tiền được tìm thấy nhiều ở Nam Á và Đông Nam Á. Tên khoa học của nó là Strychnos nux-vomica thuộc gia đình Loganiaceae. Người Anh gọi là poison nut (vì độc chất của mã tiền), quaker buttons, snake-wood, nux-vomica, strychnine tree. Người Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm về việc dùng mã tiền (củ chi) làm thuốc. Họ gọi mã tiền (củ chi) là kuchala. Người Trung Hoa gọi là ma qian zi. 
Cây củ chi cao đến 25 m. Lá bầu như trầu. Trên lá có nhiều gân lá song song với rìa lá. Hoa nhỏ màu trắng ngà kết thành chùm. Trái tròn màu vàng cam khi chín. Gỗ trắng và cứng.
Củ chi nổi tiếng vì độc chất của nó. Nhưng độc chất đó cũng được nghiên cứu kỹ lưởng để dùng vào việc chữa trị bệnh. Nó có alkaloid strychnine rất độc. Vỏ có brucine và nhiều hợp chất độc khác. Nói chung cây củ chi có nhiều độc chất. Nhưng dùng ở liều lượng đúng, nó trở thành thuốc trị đau bụng, gây nôn, táo bón, mất ngủ, bịnh tim, thần kinh, tinh thần hồi hộp bất an, kinh nguyệt không điều hòa, bịnh hô hấp của người già, viêm vành tai ngoài gây ngứa ngáy khó chịu.
Trong y học dân gian người ta xem mã tiền như thuốc bổ tạo sự thèm ăn. Hiện nay ở Trung Hoa người ta nghiên cứu xem củ chi có thể dùng vào việc chữa trị ung thư gan hữu hiệu hay không.

TRẢNG BÀNG
Tràng Bàng là một quận trong tỉnh Tây Ninh gồm có 7 xã. Quận nầy nằm cách Sài Gòn 50 km về phía tây bắc. Quận Trảng Bàng rộng lối 340 km2. Trảng Bàng nổi tiếng với bánh canh giò heo ăn với bánh tráng phơi sương (không cần nhúng nước), rau rừng và nước mắm pha chế đặc biệt của người miền đông Nam Bộ. Năm 1972 một bức ảnh chụp một em bé trần truồng chạy ngoài quốc lộ ở Trảng Bàng sau một cuộc dội bom napalm trong một làng trong quận Trảng Bàng được giải thưởng Putlitzer.
Trảng Bàng là sinh quán của giáo sư Nguyễn Ngọc An, người sáng lập hai trường Minh Đức (Trảng Bàng) và Tân Dân (Hóc Môn). có một thời ông là tổng trưởng bộ Thông Tin và Chiêu Hồi.
Theo từ nguyên thì Trảng (savanna) là một vùng đất trống có nhiều cỏ và cây cùng một loại mọc lưa thưa. Bàng là cây bàng, một loại thảo mộc được tìm thấy nhiều ở Nam Á, Đông Nam Á, Nam Hoa, các hải đảo Thái Bình Dương và biển Caribbean.
Tên khoa học của cây bàng là Terminalia molucca (còn nhiều tên khác) thuộc gia đình Combretaceae. Chữ molucca trong tên khoa học cho thấy nguồn gốc Molucca, Indonesia, của loại thảo mộc nầy hay ít ra nó cũng có nhiều trên đảo nầy. Người Anh gọi cây bàng là umbrella tree (vì bóng mát rộng lớn của nó), tropical almond (hạnh nhiệt đới) như người Tây Ban Nha gọi almondro de la India (hạnh Ấn Độ) Người Miến Điện gọi là badan và Khmer là pareang prang.
Cây bàng cao đến 25 m, có nhiều nhánh nên cho bóng mát rộng lớn. Lá bàng to, dày và láng. Vào mùa thu lá chuyển sang màu vàng rồi đỏ rất đẹp trước khi rụng. Trái bàng khá to, cơm dày ăn được. Hột có nhiều dầu và có mùi dễ chịu. Hột được ăn sống hay rang chín. Lá hay hoa cây bàng đều đẹp. Lá tươi hay khô đều được dùng làm thuốc nhuộm. Màu xanh chuyển sang màu vàng khi cho phèn chua và sulfate sắt vào. Gỗ cây bàng rất cứng và đẹp. Nó được dùng để cất nhà hay làm đồ mộc. Trồng cây bàng để có bóng mát, có nhiều gỗ, thanh lọc không khí, chống xâm thực ngoài bờ biển và tạo phong cảnh đẹp.
Lá, gỗ, vỏ, hột cây bàng đều được dùng làm thuốc. Sự dồi dào tannins của lá, vỏ làm cho cây bàng hữu dụng trong việc trị chứng tiêu chảy, kiết lỵ và đau nhức. Hột được dùng làm thuốc trị huyết tiện (hematuria). Ở Ấn Độ người ta dùng lá bàng trị tê thấp. Kết hợp với thuốc xức để trị ghẻ, phong hủi và các chứng bịnh về da.
Trái bàng có ác xít tannic. Tannin của lá và vỏ cây bàng có punicalag.


St trên trang AHBH.

Tản mạn NHỚ LẠI BÀI HỌC XƯA - Nguyễn Trần Diệu Hương.



NHỚ LẠI BÀI HỌC XƯA
Nguyễn Trần Diệu Hương


NHOBAIHOCXUA

Ruồi muỗi bắt đầu chết oan ức, tội nghiệp khi trâu bò húc nhau. Thoạt đầu trâu bò vì hăng máu quá, vì là trâu bò nên còn nặng nợ sân si, hùng hổ giương sừng ăn thua đủ với đối phương không thấy ruồi muỗi rơi rụng tả tơi chung quanh đấu trường.

Cùng thân phận bọt bèo, những con ruồi, muỗi khỏe hơn còn cầm cự được trong trận chiến giữa trâu bò đã thấy đồng loại của mình bị "tên bay đạn lạc" ngay từ phút đầu tiên.

Ngày ngắn lại, đêm dài ra, lấn đất dành dân với ngà.  Chỉ có hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày, bên này bành trướng thì bên kia phải nhún nhường. Đó cũng là lúc người ta nghĩ đến những người không nhà phải vất vả chống chọi với thời tiết lanh giá khắc nghiệt của vùng Bắc Mỹ. Nhiều tổ chức từ thiện đi quyên góp lòng hảo tâm của mọi người để giúp người không nhà có thêm áo khoác mùa đông, người nghèo có thêm thức ăn, đủ nhiệt lượng để chống lại cái lạnh của thiên nhiên.
Ở một ngôi chợ của Mỹ, có những tấm flyers quảng cáo đặt ở quầy tính tiền kêu gọi lòng từ thiện:
"1 đồng cho 9 bữa ăn,
5 đồng cho 45 bữa ăn,
10 đồng cho 90 bữa ăn"
Có người thắc mắc hỏi cô nhân viên thu ngân:
- Sao rẻ vậy cô?
Chừng như được huấn luyện từ trước, và đã được hỏi nhiều lần như vậy, cô thu ngân trả lời kèm theo một nụ cười rất tươi:
- Công ty của chúng tôi sẽ matching (bỏ ra một số tiền tương đương với đóng góp của người hảo tâm) với số tiền đóng góp từ public. Ngoài ra chúng tôi sẽ hiến tặng thực phẩm tươi cho các cơ sở từ thiện chuyên phục vụ các bữa ăn nóng cho người không maỵ

Với những người Mỹ bình thường, sống bằng "paycheck to paycheck", bằng tiền lương định kỳ hàng tuần hay hàng tháng, mười đồng thì "hơi nhiều nhiều”, bằng hai lần ăn buổi trưa", năm đồng thì "cũng OK", một đồng thì là "chuyện nhỏ". Nên mỗi ngày trung bình có bao nhiêu lượt khách vào chợ là có bấy nhiêu đồng đóng góp, giúp cho người nghèo có bữa ăn nóng, đủ dinh dưỡng vào dịp thu sang đông về, và vào mùa lễ cuối năm ở Mỹ.

Cứ như vậy, ngày qua ngày, từ đầu mùa thu đến nay, mỗi một người dân bình thường, ngay cả những người phục vụ ở các quán ăn cũng góp một đồng từ mức lương tối thiểu và từ những đồng tiền tip hạn hẹp có thấm mồ hôi (và đôi khi cả nước mắt?) của mình khi trả tiền đi chợ. Quỹ giúp người không nhà tăng lên mỗi ngày nhờ những đồng tiền nhỏ nhoi “góp gió thành bão” của những người dân thường xuyên đóng góp cho các quỹ từ thiện mà chưa bao giờ nghĩ đến chuyện cuối năm khai chuyện đóng góp trên hồ sơ đóng thuế.
Khi "trâu bò húc nhau", ngay từ ngày đầu tiên ruồi muỗi đã rơi tơi tả.

Cô thu ngân viên ở chợ là một trong những người đầu tiên thấy ruồi muỗi rơi rụng xác xơ tội nghiệp.Cô vẫn giữ nụ cười tươi vui vẻ mời gọi:
- Ông (bà) có vui lòng đóng góp một chút cho bữa ăn của người nghèo không ạ?

Không như mọi lần, hầu hết mọi người đóng thêm một đồng, lúc này thay vì nhận được tiền cô chỉ nhận được cái lắc đầu ái ngại, buồn xo:
- Để khi khác, xin lỗi là tôi không giúp được gì trong lúc này..
- Thành thật xin lỗi, để lúc khác...

Cuối giờ làm việc, cô giao quầy thu tiền cho đồng nghiệp, vào back office kiểm tiền, và buồn man mác vì hôm nay không có ai đóng góp cho quỹ từ thiện giúp những người khốn khó có thức ăn nóng đều đặn trong mùa đông; mặc dù cô cũng như mọi đồng nghiệp khác vẫn vui vẻ chào mời mọi người ủng hộ. Hôm nay là ngày 1 tháng 10 năm 2013, ngày đầu tiên chính phủ liên bang chưa được duyệt ngân sách hoạt động trong tài khóa mới 2013-2014, gần tám trăm ngàn công chức liên bang bị nghỉ việc không lương cho đến khi nào ngân sách được Quốc hội thông qua.
Như một hệ quả tất yếu, khi không biết ngày nào mình mới được đi làm lại, người ta đành "thắt chặt túi tiền", tiêu xài dè xẻn hơn, kể cả việc ủng hộ người homeless một đồng mỗi lần đi chợ.
Ảnh hưởng dây chuyền, quán hàng vắng khách hơn. Có những tiệm ăn gần các công sở sống nhờ các công chức liên bang đến ăn trưa mỗi ngày, khi "goverment shutdown" chỉ có những dãy bàn ghế trống rỗng buồn tênh như khuôn mặt các nhân viên của nhà hàng vốn dĩ sống bằng tiền tip nhiều hơn là bằng lương căn bản tối thiểu.
Rồi các tiệm giặt ủi cũng sẽ bị ảnh hưởng tuần sau vì không đi làm thì đâu có cần phải ăn mặc trịnh trọng, đâu có phải tốn tiền giặt ủi. Những trạm bán xăng cũng giảm thu nhập, khi người ta không lái xe đi làm thì nhu cầu đổ xăng cũng giảm mạnh, và cũng không ai có lòng dạ nghĩ đền chuyện lái xe đi chơi khi không biết ngày nào công việc và paycheck mới trở lại bình thường với mình.
Nếu tình trạng này kéo dài lâu, tới phiên các nhân viên làm tư cũng bị "sent home", nghỉ việc không lương như gần tám trăm ngàn công chức liên bang vì không có một ông bà chủ nào muốn trả lương cho nhân viên đến chỗ làm ngồi chơi chờ việc.
Cả cơ quan không gian NASA (National Aeronautics and Space Administration) vốn âm thầm giúp nước Mỹ phát triển và giữ vững ngôi vị nhất nhì thế giới cũng bị đóng cửa gần như toàn bộ. Buổi chiểu đi làm về lái xe ngang qua trung tâm của NASA chạy dài rải rác từ Menlo Park đến Mountain View -ở miền Bắc California- người ta thấy bãi đậu xe ngày thường mà trống rỗng, vắng vẻ buồn tênh. Các nhà khoa học chắc đang nằm nhà nghĩ về một project đang trôi chảy của mình bỗng bị chận đứng ngang xương vì các ông bà chính trị gia không chịu nhường nhau.

Các bệnh nhân không có tiền phải vào các trung tâm nghiên cứu của chính phủ liên bang thuộc NIH (National Institutes of Health) để "hai bên cùng có lợi": bệnh nhân được chữa bệnh miễn phí, các nhà khoa học nghiên cứu thuốc hoặc phương pháp chữa bệnh mới với con người bằng xương bằng thịt, có hiệu quả hơn làm trên chuột bạch. Vậy mà khi government shutdown, NIH tạm thời không nhận bệnh nhân mới như lịch trình đã hẹn trước. Không biết có bệnh nhân nào đang đứng giữa hai bờ sinh tử không kéo được đến ngày bệnh viện nghiên cứu thuộc liên bang được cấp ngân sách mớỉ

Các em bé nhỏ xíu tự dưng thành những nạn nhân đầu tiên khi ngân sách chưa được thông qua, chương trình dinh dưỡng đặc biệt WIC (Special Supplemental Nutrition Program for Women, Infants and Children) hoàn toàn ngưng. Biết đâu có một vài em bé mới ra đời không thể bú sữa mẹ vì một lý do nào đó, và nếu em sinh ra đời "dưới một ngôi sao xấu", gia đình nghèo, em không có đủ dinh dưỡng cần thiết, lớn lên em ốm yếu và phải trở thành một gánh nặng cho xã hội.

Rải rác trong toàn nước Mỹ, 368 công viên quốc gia đóng cửa vì chính quyền liên bang chưa "funding", cung cấp ngân sách trả lương cho các nhân viên quản lý. Cả ngàn du khách mỗi ngày này cất công đến thăm các thắng cảnh thiên nhiên phải chạy vòng vòng ở ngoài nhìn vào, mặc dù họ vui lòng bỏ tiền ra mua vé để vào thăm những công trình tuyệt đẹp của đất trời như Yosemite ở miền Trung California. Chưa kể các du khách ngoại quốc có thể bỏ ý định đi thăm Mỹ vì họ không thể vào chiêm ngưỡng tượng nữ thần tự do ở New York hay nhà tù lịch sử Alcatraz ở ngoài khơi San Francisco. Không biết ai phải chịu trách nhiệm trong việc làm hao hụt ngân sách từ nguồn thu từ đất trời này?
Lịch sử lập lại lần thứ hai government shutdown kể từ 28 ngày tổng cộng của tài khóa 1995-1996. Thời đó, chúng tôi đang ở năm cuối Đại học, ông Giáo sư không biết theo trường phái bảo thủ cứng nhắc của phe Cộng hòa hay trường phái mị dân uyển chuyển của phe Dân chủ mà bắt chúng tôi làm research tối tăm mặt mũi. Đến lúc trả bài, thay vì phân tích ưu khuyết điềm của học trò như thông lệ, ông Thầy "nguyền rủa cả voi lẫn lừa" làm hại ngân sách quốc gia, làm mất lòng tin của dân với cả hai ngành hành pháp lẫn lập pháp.

Lúc đó chúng tôi còn rất trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa đủ sức thấy mọi chuyện trên đời, cứ nghĩ là ông Thầy lớn tuổi khó tính. Nhưng 17 năm sau, khi lịch sử lập lại, chúng tôi lớn khôn hơn, dở bài research năm xưa đọc lại, nhớ lại lời ông Thầy cũ, rồi nhớ câu ngạn ngữ Việt Nam "trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết" mà thương cho những người dân bình thường.
Hy vọng lần này thời gian "trâu bò húc nhau" ngắn hơn để con số "ruồi muỗi" bị thiệt hại ít hơn 17 năm trước, để nước Mỹ còn giữ nguyên được credit với thương trường quốc tế. Và quan trọng hơn hết để niềm tin của chúng tôi với các chính trị gia nói riêng và với con người nói chung vẫn còn ở mức trên trung bình.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara - Tháng 10/ 2013
( Trang: ngo-quyen.org )

Thơ CHỢT MƯA - Xuân Duyên

Thứ Tư, 17 tháng 1, 2018

Thơ vui "TÌNH YÊU" KỲ CỤC - H-Thanh Thủy




"TÌNH YÊU" KỲ CỤC 

"Tình yêu" gì mà kỳ cục quá đi
Mới quen trên mạng muốn... yêu tức thì 
Khen đẹp khen xinh chỉ vài câu chữ 
Xong là dẻo miệng tỏ tình thẳng luôn 

Nếu em đẹp em xinh ên(*) em biết 
Mạng ảo: ảnh và lời có chắc đâu 
Lại còn mánh lới tung ra... giăng bẫy 
Rằng: anh đã biết vì... em yêu anh (!?)

Quý vị "thợ săn" ơi! Nên tỉnh mộng 
Là mạng ảo "săn tình" làm chi
Muốn yêu người đâu phải giống... "đi săn" 
Hãy cho xứng đấng mày râu nam tử !...

H.THANH THỦY  ( 1-2018 )
-------------------------
(*) Chỉ một mình. 

Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2018

Khảo cứu SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC... (p2) - Sưu tầm trên mạng.



SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC SÀI GÒN XƯA. 

Tên gọi Saigon từ đâu?
Đây là một đề tài được các nhà nghiên cứu, học giả, Tây lẫn Ta, tốn rất nhiều thì giờ và công sức.
Cho đến nay thì có khoảng 5 giả thuyết về xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có 3 thuộc loại quan trọng hơn. Xin ghi lại 3 thuyết quan trọng hơn dưới đây: 

Sài Gòn từ Thầy Ngòn (Đề Ngạn), Xi- Coón (Tây Cống): 
Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 tay thực dân Pháp là Aubaret và Francis Garnier (người bị giặc Cờ Đen phục kích chết ). Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine và Garnier, Cholen, thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị Tây Sơn tàn sát, đã lập nên thành phố Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành phố đó là Tai-ngon hay Ti-ngan. Sau dó, người Việt bắt chước gọi theo và phát âm thành Sài Gòn.
Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì Thầy Ngòn, Xi Coón, rất giống Sài Gòn! Tuy nhiên, theo lịch sử thì không phải.

Tại sao?  Vì lịch sử chứng minh rằng Saigon có trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc trại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coọn.
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vở "Luỹ Sài Gòn"(theo Hán-Việt viết là "Sài Côn").  Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện trong tài liệu sử sách Việt Nam . Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là "Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là "Côn". 

Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Saigon!  Thì làm gì phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng.

Sài Gòn từ Củi Gòn, Cây Gòn, Prey Kor.

Thuyết này được Petrus Trương Vĩnh Ký đưa ra dựa theo sự "nghe nói" như sau: 
"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ; Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn . Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận".
Pétrus-Trương Vĩnh Ký- Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong Excursions et Reconnaissance X. Saigon , Imprimerie Coloniale 1885. 

Không biết tại sao mà sau này Louis Malleret và Vương Hồng Sển lại quả quyết thuyết này là "của" Trương Vĩnh Ký ,  mặc dù ngay sau đoạn này, TVK lại viết tiếp "Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó".
Tương tự, có nhiều thuyết phụ theo nói rằng Sàigòn từ"Cây Gòn" (Kai Gon) hay "Rừng Gòn" (Prey Kor) mà ra.

Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông gòn.
Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được dấu tích của một thứ "rừng gòn" ở vùng Sàigòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả nhà bác học Trương Vĩnh Ký . Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó Sàigòn không có phát triển hay thay đổi gì cho lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sàigòn. 

Sài Gòn từ Prei Nokor 
Đây là thuyết mà thoạt đầu khó có thể chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện nay được coi như là "most likely". 
Chính Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này Trong Tiểu Giáo Trình Địa Lý Nam Kỳ, ông đã công bố 1 danh sách đôi chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokọr 
Trước nhất, theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor (Saigon) và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế.
Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi Rai Gon Thong (Sài Gòn Thượng) và Rai Gon Hạ(Sài Gòn Hạ). 

Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor(hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng", Prei hay Brai là rừng, Nokor hay Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế như đã nói ở trên.
Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành RAI, thành"Sài", Nokor bị bỏ "no" thành "kor", và từ "kor" thành "Gòn". 

Từ Prei Nokor …mà thành SàiGòn thì thật là …dễ sợ ! 
Còn sở dĩ có Saigon viết dính nhau là do các giáo sĩ Tây phương đã bỏ mất dấu và gắn liền nhau khi in. Sau khi chiếm nước ta, để khỏi đọc "sai" ra "sê" theo giọng Pháp nên Saigon được viết với hai dấu chấm trên chữ i.
Saigon … muôn thuở là Sài gòn !

Ca dao tục ngữ Sài Gòn
Saigon là Hòn ngọc Viễn Đông, là một thành phố lớn nhất Việt Nam. Những nơi như Saigon được mệnh danh là Kẻ Chợ, đã là Kẻ Chợ ắt có chợ, mà phải là ngôi chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Saigon, ra vào chợ Saigon hẳn không quên. Chợ Saigon được đồng bào Hậu Giang so sánh với ngôi chợ tỉnh nhà:
Chợ Saigon cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng.
Giã em xứ sở vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn ra vô
.

Người con gái ở đô thành tiêm nhiễm nếp sống Tây phương, chàng trai xa nàng khỏi sao thắc mắc, lo nàng ở lại chẳng vuông tròn nên phải ra vô, nàng vuông tròn chàng yên tâm về xứ sở.
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Saigon xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.


Saigon và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên sáu chục cây số, nay tuy thật gần những xưa thật xa, vì phương tiện di chuyển đâu có dồi dào như nay, chàng và nàng dù đã yêu nhau, nhưng mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi bên cùng bận làm ăn buôn bán, nàng ở chợ Saigon, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau, chỉ biết tin thư thăm hỏi, lấy giấy thay lời. Chàng yêu nàng vì duyên, vì tình, tình yêu chân thật, đâu thấy nàng giàu mà ham hoặc thấy nàng nghèo mà chê.
Chợ Saigon đèn xanh, đèn đỏ,
Anh coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu.
Lấy anh em đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em.


Chợ Saigon với những hàng quảng cáo đèn màu xanh đỏ, chàng trai quê lên nhầm lẫn đó là đèn tàu. Sự lầm lẫn thị giác này có thể có được, nhưng lầm về yêu đương, chàng đâu có lầm. Chàng lấy nàng đâu có kể sang giàu, vì tiền tài bao nhiêu cũng có thể hết, duy tình nghĩa mới bền lâu, như người xưa đã nói:
Theo vàng bỏ ngãi ai hơi,
Vàng thời đã hết, ngãi tôi vẫn còn
.

Chính vì nghĩa mới bền lâu, nên khi xa người nghĩa, người con trai đứng ngồi không yên:
Chim quyên xuống đất tha mồi,
Tôi xa người nghĩa đứng ngồi không yên!
Giấy tây bán mấy,
Mua lấy tờ nguyên,
Làm thơ hỏi bạn tình duyên chuyện gì?


Mến thương nàng, đem nàng so sánh với các nàng Lục tỉnh, cô gái Saigon thật hơn:
Nội trong lục tỉnh Nam kỳ,
Mấy ai được nết nhu mì như em.
Hai hàng lụy ngọc ướt nhèm,
Làm sao cho đặng anh với em giao hòa
.

Sự ước vọng, lòng mong mỏi của chàng là được cùng nàng giao hòa!
Chợ Saigon ngày nay ta vẫn gọi là chợ Bến Thành, nhưng Bến Thành trước đây là bến tàu và hàng ngày thường 10 giờ thì tàu đến bến này:
Mười giờ tàu lại Bến Thành,
Súp lê còi thổi bộ hành lao xao
.

Sao lại mệnh danh Bến Thành?  Phải chăng đây là bến của đô thành Saigon hay của Gia Định thành?  Còn khách bộ hành lao xao vì muốn ngắm tàu Tây.
Anh ngồi quạt quán Bến Thành,
Nghe em có chốn anh đành quăng om!
Anh ngồi quạt quán Bà Hom,
Hành khách chẳng có, đá om quăng lò.


Chàng trai ngồi quạt quán ở Bến Thành với bình trà Huế, được tin người mình thương đã có nơi chốn, chàng tỏ buồn rầu quẳng cả bình trà đi! Kể cũng đáng buồn, tưởng được cùng người thương thưởng thức bình trà (om) ngon, ngờ đâu nàng là hoa có chủ, chàng đành ôm hận, trút mối giận vào om, cái bình trà vô tội.

Nhắc đến Bến Thành, quên sao được thành Tây:
Dân đất Bắc,
Đắp thành Tây.
Đông thật là đông,
Sầu Nam vời vợi.


Câu này gồm đủ đông, tây, nam, bắc! Dân đất Bắc phải chăng những người dân miền Bắc bị đưa vào Nam làm dân phu, đắp thành cho người Tây? Số dân phu ắt nhiều lắm, Đông thật là đông. Sự đông đúc này quả là một mối sầu vời vợi cho nước Nam, cho dân Nam! Nước mất nhà tan, thân làm nô lệ, phải đi đắp thành cực khổ cho Tây để chúng dựa vào thành trì đô hộ đồng bào mình. Người miền Bắc bị đi dân phu hằng than thở: 
Nhà tan nước mất ai ơi,
Cái thân nô lệ sống đời cu ly!


Người dân than thân như vậy, nhưng vẫn có bọn mũ cao áo dài hà hiếp dân để nịnh bợ quân thù! Thật đau đớn nhưng những kẻ mãi quốc cầu vinh, cõng rắn cắn gà nhà, có bao giờ chúng nghĩ đến Sầu Nam vời vợi. Và trong khi sống đời cu ly đi đắp thành Tây, đã biết bao nhiêu người bỏ thây cùng công việc, ngày xưa đâu đã có máy móc, kỹ thuật xây dựng đắp hoàn toàn công ở sức người.
Đắp thành Tây rồi xây soái phủ cho Tây, người dân Nam trong cảnh căm hờn muốn nói không ra, đành gởi tâm tình vào ca dao tục ngữ:
Trên thượng thơ bán giấy
Dưới Thủ Ngữ treo cờ.
Kìa Ba còn đứng trơ vơ!
Nào khi núp bụi, núp bờ,
Mũi Di đánh dạo bây giờ bỏ em. 


Thượng thơ, xưa chính là soái phủ miền Nam ở góc đường Tự Do và Gia Long ngày nay. Nơi ấy có bán ấn chỉ cho dân, trong Nam quen gọi là bán giấy. Thủ Ngữ là nơi thủy quân Pháp đóng, cọ dựng cột cờ. Con người ái quốc trông hai nơi này căm gan sôi ruột! Ai đã khéo đạt ra cau ca dao trên để kích thích lòng căm hờn của người dân Việt, đã nhắc đến tượng Gambotta ở vườn Tao Đàn, gọi một cách nhục nhã là Ba Tượng một người Pháp gọi là Ba, ai là dân Việt ắt thấy nhục vong quốc này. Nếu câu ca dao chỉ có ba dòng đầu có thể gợi sự nghi ngờ của người Pháp, bởi vậy phải thêm hai hàng sau gắn vào, mượn lời tình nhân oán trách tình nhân che dấu ý kín của câu hát. Tuy đây là lời tình nhân oán trách tình nhân, nhưng cũng là lời đồng chí oán trách đồng chí, đã cùng nhau núp bụi ngồi bờ, đã cùng nhau đánh dạo ở mũi Di, vậy mà quên nhau, về đầu thú người Pháp để cầu công danh phú quý.
Pháp chiếm Việt Nam, một mặt dân Việt Nam căm hờn, một mặt một số cô gái Việt Nam kém ý thức, vì hoàn cảnh đã sánh duyên với Pháp trở thành me Tây. Lính Pháp lấy me trong thời gian ở đất Việt, rồi anh lính trở về Pháp, cô me Tây ở lại nước Việt lại lấy chồng, đậng một anh lính khác, chẳng khác chi các nàng Giao chỉ sau này trong thập niên 60 cho đến năm 1975 sánh duyên cùng các chú lính Mẽo:
Saigon mũi đỏ,
Gia Định súp lê.
Giã hiền thê ở lại lấy chồng,
Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây.


Thuyền, tàu Saigon hồi đó sơn mũi đỏ để phân biệt với thuyền tàu lục tỉnh, như vậy thực dân tiện bề kiểm soát.
Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây, câu này muốn nói khi anh lính Tây đã ra cửa bể rồi, anh tha hồ được tự do, đến bến mới anh tha hồ kết duyên cùng người mới.
Về các cuộc hôn nhân Việt Pháp, lúc tiễn đưa, chúng tôi đã từng nhắc tới một câu trong ca dao hôn nhân dị chủng, xin phép được nhắc lại như sau:
Còi súp lê một anh còn than thở,
Còi súp lê hai anh nức nở vắn dài.
Còi súp lê ba, tàu ra biển Bắc,
Nước mắt anh nhỏ ra, anh rút mù xoa anh chậm,
Tình nghĩa vợ chồng ngàn dặm không quên.


Cuộc tiễn đưa ắt phải xảy ra tại bến tàu Saigon, và có anh chàng Tây đã thút thít vì phải xa vợ, anh bảo rằng ngàn dặm không quên, có thật hay chăng anh ra cửa bể như rồng lên mây? Sao có sự mâu thuẫn giữa hai câu thơ trên, hay ý tại ngôn ngoại, chỉ có sự mâu thuẫn trên hình thức, còn thực ra thì ngàn dặm có đời nào mà không quên đối với những lứa đôi dị chủng, nhất là trong cuộc chắp nối giang hồ.

Saigon nơi có đô hội lớn, phố xá rộng rãi, cây cao và rậm mát:
Đường Saigon cây to bóng mát,
Đường Chợ Lớn hạt cát nhỏ dễ đi
.

Đường Saigon có đúng cây to bóng mát, còn đường Chợ Lớn có lẽ trước đây với đất phù sa của đồng bằng Cửu Long, cát nhỏ dễ đi chăng! Dưới thời Pháp thuộc, đường Saigon cũng như đường Chợ Lớn đều đã rải đá và sau này tráng nhựa... Ngày nay, với thời gian đường đã hư hỏng dù rải đá hay tráng nhựa, mà chính quyền có ít chú ý tới sửa chữa, nên có thể có người than:
Đường Saigon ổ gà đi xóc,
Đường Chợ Lớn đi xóc ổ gà.


Ca dao Saigon có những câu rất ngộ nghĩnh, nhắc tới địa danh một cách khéo léo:
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai,
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.


Trong bài này chúng ta bắt gặp bốn con vật ăn cỏ là Hươu, Nai, Nghé, Bò với hai địa danh là Đồng Nai, Bến Nghé.

Dưới đây là câu ca dao nhắc tới các chợ khác ngoài chợ Bến Thành:
Mẹ đi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau chợ Vải, mua trầu chợ Dinh.
Sáng mai đi chợ Gò Vấp,
Anh mua một xấp vải đem về.
Cho con hai nó cắt, con ba nó may,
Con tư nó đột, con năm nó viền.
Con sáu đơm nút, con bảy vắt khuy;
Anh bước ra đi,
Con tám núi, con chín trì,
Ớ em mười ơi!
Sao em để vậy còn gì áo anh?

Ca dao Saigon hẳn phải còn nhiều, biết tới đâu xin tỏ tường tới đó, những điều chưa biết xin nhờ sự chỉ giáo của người biết.
(Trích tác phẩm "Hương Nước Hồn Quê" – Toan Ánh )
Đầu tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi trước của con rạch Thị Nghè quận 1 sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia Định phú do Phan Văn Thị sáng tác có câu ví ngộ nghĩnh.
Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải, 
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.
Tôi chịu thua, tìm cả trong tự điển cây "chàm rai" là cây gì, mà lá nó xanh dữ vậy.
Nội ô Sài Gòn còn có một bà cũng nổi tiếng đó là Bà Chiểu, nằm trên địa bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình Thạnh. Khu vực này có cái chợ cùng tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm, chủ yếu là bán lẻ. Có câu ca dao, nghe cũng vui tai:
Xe mui chiều thả chung quanh 
Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.
Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm. Tương truyền bà Điểm là một chủ quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc Môn, có 18 thôn vườn trầu, nơi đây Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định từng hoạt động (khoảng năm 1861).
Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh, một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng; thứ nữa nhìn hình vóc của khu vực đó mà đặt.
Thí dụ: Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường 13, 14 quận Tân Bình. Ai đi trên đường lên Tây Ninh, vọt thẳng biên giới với Cam-pu-chia, có một ngã ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 thì quẹo trái (rẽ) vào.
Hay Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận 5, thông từ các ao, đầm ra rạch Bến Nghé, nay bị lấp rồi. Bà Đô còn là tên chiếc cầu ở đầu đường Hàm Tử bắc qua rạch Bà Đô (còn gọi là Thị Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi trước, qua đây hay hát:
Kể từ chợ Sỏi trở vô 
Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh Tàu Hũ, từ đầu đường Tản Đà đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định phú có câu ví rất hay:
Giếng Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái nhảy thỏa tình khát vọng
Cầu Bà Thuông đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai.

Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạchBà Bướm có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh giới với Tây Ninh đến sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp ranh với Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà Tàng,vừa là các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua rạch Lào trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp... cũng là cầu, là rạch, là tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu khỏi trơn trợt.

Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
Trên cây Da Còm, nỡ để ông già gùi đội 
Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.


Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn nữa. Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay.  Bà Ký là đường trên địa bàn phường 9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ đường Phạm Văn Chí với Lò Gốm, nay tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà Lê Chân ở Tân Định. Năm 1906 có tên là Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại thành đường Bà Lê Chân.Bà Triệu nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp có tên là Merlande. Năm 1955 mới đổi thành Bà Triệu... Chắc là còn nhiều "bà" nữa mà người viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người tìm thêm nữa.

Cũng lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con sông, chiếc cầu, hay địa danh một vùng đất gắn với một bà nào đó, thì có cả ca dao, câu hát, câu ví dí dỏm. Nhưng, với cánh đàn ông thì thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè, câu đố nào. Dù sao, có bà thì phải có ông, bởi thiếu ông nghe như trống trải trong lòng vậy. ( còn tiếp )

HỒ ĐÌNH VŨ.