Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015
Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2015
Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015
Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015
Truyện VĨNH BIỆT LY LY - Huỳnh Văn Huê
( Hình minh họa st trên mạng)
VĨNH BIỆT LY LY
Bóng chiều ngã dài… Một bầu trời màu đỏ thẩm u buồn, bao phủ toàn bộ cái nghĩa trang vắng lặng, nhỏ bé và heo hút của một huyện lỵ đã vốn cũng heo hút và nhỏ bé…
Được biết nghĩa trang ven đường liên huyện này đã có qui hoạch giải tỏa vì vấn đề vệ sinh môi trường gì đó, nhưng nhiều năm nay vẫn không động tĩnh gì. Có vài ngôi mộ đã được những thân nhân có điều kiện di dời, cải táng, để lại sau đó là những huyệt mộ tối đen trong ánh hoàng hôn chập choạng nhìn thật đáng sợ! Bởi tình hình như vậy, có vài gia đình nghèo lại tiếp tục chôn cất thân nhân (!) nên lại có mấy cái mộ… mới phát sinh. Đồng thời có vài mộ huyệt được biến thành nơi… chứa rác sinh hoạt, rác xây dựng… Dự án vệ sinh môi trường đâu chưa thấy, bây giờ chỉ thấy mất vệ sinh và nhếch nhác thêm mà thôi!
Trong số mấy ngôi mộ mới có một ngôi mộ đặc biệt. Gia đình này chắc nghèo lắm, bia mộ được làm bởi tấm “đan” nhỏ chỉ bằng 4 bàn tay xòe người lớn, được tận dụng từ xà-bần của một công trình xây dựng ở đâu đó. Mặt “bia mộ” được viết mấy dòng chữ đơn sơ bằng sơn đỏ, tuy không nắn nót gì cho lắm nhưng phải nói là khá… đẹp: “Nơi đây an giấc ngàn thu: Ly Ly – Sinh 1994, mất 1997 – Vĩnh biệt Ly Ly – TPB ” Vậy đây có lẽ là mộ của một đứa bé 3 tuổi, có điều thân nhân của đứa nhỏ sao có vẻ bí ẩn, không ghi rõ họ tên người chết như thông thường. Mô đất đắp trên mộ tuy đã cỏ mọc xanh rì nhưng quá nhỏ nhắn, rồi cái tên Ly Ly rất là… lạ tai với người dân quanh đây.
Thế nhưng, vào một buổi chiều giống như chiều hôm nay, có khi còn ảm đạm hơn, một người xuất hiện bên nghĩa trang… Chiếc xe lăn tiến dần dần, mệt nhọc đến bên ngôi mộ. Người ngồi trên xe khó mà đoán tuổi cho được, hai chân đã bị cụt đến tận đầu gối! Râu, tóc đã khá lâu không được chăm sóc kỹ, thay nhau tô đậm thêm nét dày dạn phong trần, nét khắc khổ hằn lên gương mặt chữ điền, hình như vẫn còn lưu dấu một quá khứ như thế nào đó… !
Ông ta kiếm sống bằng công việc bán vé số trên chợ huyện và vùng phụ cận. Cách đây khoảng mười năm hoặc có thể hơn, người ta còn gặp ông ta ở dưới khu vực quanh chợ tỉnh, cũng ngồi xe lăn bán vé số. Lúc đó ông mới là một người đàn ông vừa chạm mức trung niên thôi. Vẫn gương mặt chữ điền đầy đặn, mái tóc dờn dợn tự nhiên được cắt vừa phải, nam tính nhất là cái càm vuông viền một hàm râu được cạo nhẵn chỉ thấy xanh xanh.
Dạo đó lượng người bán vé số còn tương đối ít, công việc kiếm sống của ông xem như khá thuận tiện. Chung quanh ông có nhiều câu chuyện được kể qua kể lại, nhưng có một điều: đó lại không phải từ chính cửa miệng… ông ta! Có người nói, ông làm nghề gì mà biết lái… máy bay, vì chiếc trực thăng bị rơi, một cỗ máy hiện đại biết bay do con người chế tạo đã gặp phải một cỗ máy biết bay khác (cũng do con người làm ra!), nhỏ hơn, bay nhanh hơn nhưng chứa đầy… thuốc nổ! Như có phép mầu, ông may mắn thoát chết nhưng thương tật phải gánh chịu nặng nề đến như vậy. Nhưng đơn giản hơn, không có những tình tiết ly kỳ như trên, có người lại nói ông đi buôn bán trên xe lửa, gặp tai nạn, té trên xe lửa xuống và bị bánh sắt cán qua cả hai chân. Rồi lại cũng có người nói là cùng quê, cùng quán với ông ta, biết rất rành mạch về ông, nhưng nói toàn những chuyện trái ngược lại tất cả những chuyện kể trên đến 180 độ… !
Nhưng có một điều chắc chắn đúng là: hiện ông đang sống cô độc một mình, không vợ, không con, không họ hàng gì cả. Rồi càng ngày người miệt ngoài nhập cư vào càng đông, nhiều người ra làm cái “nghề” giống ông! Công việc kiếm sống qua những tờ vé số của ông khó khăn hơn. Để tồn tại, người ta lại găp ông xuất hiện tại những quán nhậu với cây đàn gui-ta thùng, và ông đàn và hát giúp vui bằng những bài hát theo… yêu cầu của khách. Đáp lại, khách sẽ mua vé số bằng giá có “phụ thu”, tính ra lợi nhuận cũng kha khá!
Cuộc đời đưa đẩy, ông quen với một bà độc thân - cũng bán vé số thôi – nhỏ hơn ông mấy tuổi, xem cũng dễ nhìn. Thời gian sau cả hai thành vợ chồng. Ông cũng nói thật rằng thời trai trẻ ông cũng có vợ và một đứa con nhỏ, nhưng có một cuộc bể dâu lớn lao đã làm thay đổi tất cả. Người vợ gặp dịp này đã bán nhà gom góp hết tiền bạc, tài sản, bỏ ông cùng đứa con thơ dại hãy còn ẵm ngữa sau khi ông bị thương tật vừa mới trở về từ bệnh viện. Bạn bè số đông tản lạc khắp bốn phương trời, một ít còn lại gặp… “thời”, khéo léo tìm cách … tránh xa ông! Đứa con thiếu mẹ, èo uột, sau cơn bệnh nặng rồi cũng bỏ ông ở lại trần thế với nhiều chuyện, tráo trở lọc lừa này…
Ông đau khổ tột cùng, bao khó khăn ập đến với người đàn ông tật nguyền đáng thương. Có lúc ông căm hận thốt lên: “Trên đời này ngoài mẹ mình, ông không còn kính trọng và tin tưởng người đàn bà nào hết!”. Vậy hôm nay, - ông lại có… vợ - nếu được như vậy phải mừng cho ông thôi. Sống một thân một mình không có người để đỡ đần, nương tựa nhau lúc bệnh hoạn, ốm đau thì đâu có… nên!?
Bây giờ người ta thấy hai người cùng bán vé số chung với nhau. Người phụ nữ đẩy chiếc xe lăn, đưa ông dạo qua các bàn thực khách… .Xong rồi lúc di chuyển qua nơi khác người ta thấy chị ta – vì còn trẻ hơn ông – đạp xe đạp chầm chậm theo sau. Gặp những đoạn dốc, chị lại xuống xe, một tay dắt xe đạp, một tay đẩy phụ chiếc xe lăn. Tuy trong hoàn cảnh khó khăn nhưng trông hai người đầy tình tứ và hạnh phúc! Có người kết hợp cùng buôn bán, công việc làm ăn của ông trở nên khấm khá hơn trước. Cả hai sắm một chiếc gắn máy, phía sau có cái rờ-móoc để kéo ông đi… (tuy chầm chậm thôi, nhưng dù sao cũng hơn … xe lăn). Công việc ngày càng “phát đạt”, có lúc hai người còn định có với nhau một đứa con… .
Thế nhưng khi thức giấc vào một buổi sáng sớm, ông đã mất xem như tất cả! Người “vợ” đã trốn đi với tất cả tài sản: chiếc xe gắn máy, tiền bạc dành dụm bấy lâu nay, ngay cả số vé số định để bán cho ngày hôm đó… .Chiếc rơ-móoc theo lệ thường được tháo rời ra còn đó chơ vơ trước hiên căn nhà trọ một cách trơ trẻn vô duyên! Không hề tiếc nuối một người đàn bà như vậy, nhưng ông phẩn uất vì không ngờ mình bị gạt, bị ăn cướp một cách trắng trợn đến thế. Đau đớn, bế tắc, ông đã định tìm đến cái chết. Nhưng rồi, – đến giờ ông mới tiết lộ - vì còn một mẹ già mù lòa ở quê, chỉ sống nhờ vào sự cưu mang của hàng xóm và số tiền ít ỏi của ông chắt chiu gởi về, thế là ông gượng lại và còn tiếp tục tồn tại trên cõi đời này.
Thời gian ngắn sau, mọi người lại gặp ông trở về công việc cũ, với chiếc xe lăn di chuyển nhờ vào hai pê-đan cầm tay. Giọng ca, tiếng đàn giờ như… ứa máu! Gieo vào lòng người những cung bậc, những lời lẽ hơn lúc nào hết đầy bi thương, thống thiết !
Rồi một buổi chiều, trên đường về, gần cái nghĩa trang nói trên, ông nghe tiếng kêu yếu ớt của một… con chó con lạc loài nào đó. Sau cả ngày dong ruổi, đã mệt mỏi,định bỏ đi luôn, nhưng có cái gì đó thôi thúc khiến ông dừng xe lại. Khó khăn lắm ông mới chui vào được lùm cây ven đường: một con chó nhỏ đang thoi thóp, cái đuôi còn dính máu khô đang bị bầy kiến vàng hung dữ bu đen. Ông chép miệng, lắc đầu:
- Lại gặp những người mê tín –dị đoan rồi!
Con chó nhỏ đáng thương với bộ lông màu trắng chỉ vì xuất hiện chút lông đuôi màu đen mà bị chủ nuôi đối xử như thế đấy! Thuở nhỏ ông có nghe ba ông nói và phê phán: “ Có người nuôi chó nhưng… ác lắm, hể thấy chó con sinh ra có màu lông lạ theo kiểu ló đầu thì nuôi, ló đuôi thì… chặt!”. Con chó này – lại là một con chó cái - chẳng những bị chặt một khúc đuôi mà còn bị ném ra ngoài đường vì chủ cho rằng lớn lên nó phản chủ và còn sợ bị… xui xẻo!
Thế rồi không chút đắn đo, ông quyết định cứu con chó bằng cách đem về nuôi, vì lòng nhân từ chớ không phải mong con vật sẽ… trả ơn(!?) như người đời vẫn hay nói “Cứu vật, vật trả ơn. Cứu nhơn, nhơn trả oán!”
Thời gian trôi qua… Con chó lớn lên, mạnh khỏe và xinh đẹp, người ta lại gặp ông trên đường, trong quán ăn. Con chó được ông cột bằng một sợi dây rất chắc chắn và khóa vào chiếc xe lăn, ông nói với mọi người:
- Nó không có bỏ tôi đi đâu, nhưng tôi cột nó như thế này cho người ta khó bắt trộm nó thôi!
Vào một xế trưa nắng nóng, - hôm nay ông mệt mỏi hơn thường ngày, vì từ sáng đến giờ đi lại hơi nhiều – đến một con dốc tuy không cao lắm, hai tay ông mỏi nhừ, chiếc xe chạy chậm lại… .
Điều kỳ lạ xãy ra, con chó thông minh đã thấu hiểu được hoàn cảnh của chủ. Nó gắng sức bình sinh, vượt lên trước kéo phụ với chủ cho chiếc xe lăn vượt dốc nhẹ nhàng hơn! Chính người chủ cũng không hết ngạc nhiên, ông không hề tập luyện gì cho con chó đâu!? Đến đỉnh dốc, cả hai dừng lại dưới bóng cây ven đường nghỉ mệt. Ông cười cười xoa đầu con chó, trong khi nó lè lưỡi thở, cái đuôi ngắn ngủn ve vẫy, ánh mắt hấp háy, nó có vẻ sung sướng vì giúp đỡ được cho ông.
Thế đấy! Ông thấm thía nhớ có một danh nhân người… Đức nào đó – có cái tên dài và khó nhớ – đã nói: “Làm bạn với một con… vật tốt còn hơn kết thân với một con… người xấu!” Từ đó về sau, cứ đến những đoạn đường dốc là con chó luôn luôn kéo phụ với ông chiếc xe lăn. Để cho đỡ đau cái cổ con chó cưng, ông thay đoạn dây cổ bằng dây dù to bản, choàng xuống đến ngực như chó kéo xe trượt tuyết vùng Bắc Mỹ (Khác chăng là ở xứ người có cả đàn chó được huấn luyện chuyên nghiệp, còn ông thì chỉ có … một con chó mà thôi!).Thế là người đi đường lâu lâu lại có dịp chứng kiến cảnh con vật giúp đỡ con người thật vô cùng cảm động… .
Một ngày bình thường lại đến. Xế trưa, trên con đường liên huyện vắng, tại một con dốc – có cua quẹo - gần cái nghĩa trang, xe lăn của ông đang lên gần hết dốc, chợt trên chiều ngược lại, một chiếc xe con màu đen sang trọng đổ xuống, trên xe có một đôi nam, nữ. Có lẽ vì có khúc cua, đường đi lại bị cây cối che khuất tầm nhìn, thêm vào có thể do nghe điện thoại hay đùa cợt gì với nhau(?!) Chiếc xe đen hướng thẳng về phía xe lăn, người đàn ông hứng chịu nguy hiểm nhiều nhất, con chó an toàn hơn vì đang kéo sợi dây chếch về phía bên phải ông. Một chuyện bất ngờ nhanh chóng xảy ra. (Về sau ông không nguôi ray rức vì đã không kịp… ngăn cản được!)
Trong tíc-tắc con chó dũng cảm phóng sang trái, đứng thẳng hai chân sau, không phải sủa mà gầm lên, nhe răng nhảy chồm lên trước đầu xe, phải chăng nó muốn dùng móng vuốt hay hàm răng, hay cả thân mình để chận chiếc xe lại!?. Con chó thông minh đã tính toán đúng, hốt hoảng trước cảnh tượng xảy ra, có người nào đó trên xe đạp thắng, chiếc xe thắng ké…ét rợn người và… dừng lại. Nhưng con chó đã hứng trọn cái va chạm kinh hồn trong giây cuối cùng.
Nhiều người đi đường ngang qua cũng dừng lại, trên xe bước xuống là một người đàn ông ra dáng doanh nhân giàu có, nói tiếng Việt chưa rành, có lẽ người gốc Bắc Á (?).
- Xin … lỗi, tôi đền… tôi đền,… tiền!
Trong đám đông có nhiều người lên tiếng phản ứng:
- Xe hơi mà chạy đâm qua bên trái thì cán chết người ta hết còn gì ! – Rồi thấy trên xe còn một cô gái “chân dài” đang ngồi chết gí trước tay lái, người ta nói thêm:
- Giao xe cho… gái lái hèn chi không gây tay nạn sao được!? – Ông ngoại quốc nhà giàu chắc nghe được, vội vã chỉ chỏ với cô gái và mau miệng nói:
- Qua kia,… qua kia! – Miệng nói xong, khôn ngoan vì biết mình sai phạm nhiều lỗi, nếu giải quyết việc này càng nhanh càng đỡ rắc rối! Ông ta nhanh tay rút từ cái bóp bằng da cá sấu căng phồng ra 2 tờ giấy tiền nước ngoài, mỗi tờ mang mệnh giá 100, có màu xanh đậm đặc biệt, cho dù thoạt nhìn ai cũng biết là của quốc gia nào!
- Xin lỗi, tôi đền… tôi đền… tiền! –
Xong ông mau chóng lên xe, đóng cửa, lùi lại và … thoát đi. Chiếc xe mắc tiền tốt thật! Tiếng động cơ khởi động nhẹ và êm ru, chiếc xe lăn bánh để lại một làn khói trắng mỏng, còn mỏng hơn khói thuốc lá!
Xong ông mau chóng lên xe, đóng cửa, lùi lại và … thoát đi. Chiếc xe mắc tiền tốt thật! Tiếng động cơ khởi động nhẹ và êm ru, chiếc xe lăn bánh để lại một làn khói trắng mỏng, còn mỏng hơn khói thuốc lá!
Số tiền như thế để bồi thường cho mạng một… con chó xem ra cũng thỏa đáng, nếu không nói là… quá được. Người chung quanh giúp ông bán vé số đem xe và cả con chó vào lề đường, có người giúp nhét 2 tờ ngoại tệ vào túi áo ông. Nước mắt chảy dài, ông khóc, khóc lớn như đứa trẻ thơ.
Con chó tội nghiệp chưa chết hẳn, từ cổ họng nó rít lên những âm thanh rất lạ tai và bi thương, máu tươi từ miệng, hai tai và hai lỗ mũi chảy ra… .Nó khó khăn nhích nhẹ đầu, ánh mắt lờ đờ nhìn chủ, chợt đôi mắt nó long lanh khác thường, rồi hai dòng nước mắt trào ra! Phải chăng nó tiếc rằng không còn được gần bên chủ nó nữa!? Một tiếng rít nhỏ hơn, yếu hơn phát ra. Con chó trung thành, dũng cảm đã… ra đi !
Người đàn ông nghẹn ngào nấc lên:
- Ly Ly !... Ly Ly của tôi… đã… chết rồi !!
Như vậy Ly Ly là tên của một… con chó, không phải tên… người!!
Có hai người đàn bà đã đến đời ông, đã từng làm vợ ông, rồi cũng có người đã từng là bạn bè ông , nhưng khi họ trở mặt, chỉ khiến ông thấm thía trò đời, khi họ lọc lừa, bỏ ông… ra đi, ông chỉ căm giận họ, vì xem như mình đã bị lừa gạt. Mất họ ông không hề có chút gì gọi là luyến tiếc… .Nhưng trong buổi chiều buồn hôm nay, bên đường vắng, trong cái nghĩa trang hiu quạnh, ông đã rơi lệ chỉ vì… tiếc thương vĩnh biệt Ly Ly!
H.V.H (9-2010)
Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2015
Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015
Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2015
Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015
Truyện dịch MỘT CHUYỆN MAI MỐI KỲ LẠ - Sông Bồ.
Ở nhà tôi, mọi người thường hay bàn tán về Xan-ta-nát, cô bạn láng giềng của chúng tôi. Mẹ tôi khen:
- Con bé trông cũng dễ thương! Ăn mặc trang nhã, lịch sự. Đầu tóc lúc nào cũng chải cẩn thận đến từng sợi tóc…
Chị tôi tiếp:
- Nếu nước da trắng hơn một tí và vóc người đừng cao quá thì cũng không đến nỗi ! Cô ta cao quá nên trông người cứ còng xuống…
- Lại siêng năng chăm chỉ ! – Mẹ tôi tiếp – Từ nơi làm việc về đến nhà là xắn tay áo, hết xách thùng lại cầm chổi. Cổng rào nhà con bé lúc nào cũng sạch sẽ, sáng sủa…
- Đúng là một cô gái dễ mến… Nhưng sao cô ta lại không được may mắn nhỉ ? Nhiều năm đã trôi qua, và cô ta cứ ở vậy một mình. Bạn bè cô ta đã lấy chồng cả… từ lâu…
- Chẳng sao cả ! Như người ta nói : "Một viên ngọc rồi cuối cùng người đời cũng nhặt được nó”. Xan-ta-nát rồi cũng sẽ gặp hạnh phúc…
Tôi không tham dự vào những cuộc bàn tán ấy; nhưng trong thâm tâm, tôi đồng ý với mẹ tôi và không đồng ý với chị tôi.
Thật thế, tại sao lại gọi Xan-ta-nát là một cô gái "thiếu may mắn” ? Chị ấy là y tá trong một nhà hộ sinh. Mọi người quý trọng chị. Tôi cũng rất mến chị: chị không tự cao, không làm ra vẻ quan trọng như những người khác. Dù tôi còn nhỏ, Xan-ta-nát nói chuyện với tôi như một người bạn, cùng chia sẻ vui buồn. Chị có cuộc sống không dễ dàng : mẹ chị thường đau ốm luôn. Và với tất cả tấm lòng, tôi mong mọi điều tốt đẹp sẽ đến với chị. Chẳng hạn, chị gặp một chàng trai dễ mến và họ cưới nhau. Tại sao lại không thể được chứ ? – Chị quả thật là một người tốt, tính tình hiền hậu, thật thà. Có điều, chị ít có những người bạn gái gần gũi…Có phải vì chị luôn bận rộn ? – Mọi việc trong nhà chị làm hết một mình. Hay vì chị có bản tính rụt rè ? – Tôi không biết. Nhưng điều tôi biết chắc là : "tôi là bạn của chị và tôi phải giúp chị tất cả”…
Một lần, tôi đang đứng trước cổng nhà, Xan-ta-nát đi ngang qua, hỏi tôi:
- Em vẽ những cái này đây hả ? – Chị chỉ vào một con ngựa vẽ bằng phấn trên cánh cổng nhà tôi.
Tôi lắc đầu: - Không …
- Nhưng em thích vẽ lắm phải không ?
- Vâng !
- Vậy thì em sang đây ! – Và chị dẫn tôi vào sân nhà chị.
Tôi chưa bao giờ sang nhà chị, nên lúc này tôi nhìn chung quanh với vẻ hiếu kỳ. Mọi thứ đều sạch sẽ, ngăn nắp. Cái sân lớn đầy hoa, thật là đẹp mắt ! Xan-ta-nát tặng tôi một hộp bút chì màu và một cuốn tập vẽ. Từ đó chúng tôi thân nhau nhiều hơn... Tôi thường nặn óc suy nghĩ : "Phải làm cái gì đây để chị vui lòng ?” – Dần dần, tôi đi đến ý nghĩ là "phải tìm cho chị một người chồng tốt”, để người ta không còn xem chị là một cô gái "thiếu may mắn” hay "bất hạnh”.
Một hôm, khi đi đến cửa hàng mua bánh mì, tôi trông thấy một đám thanh niên đang tụ tập chuyện trò náo nhiệt. Tôi suy nghĩ : "Ai trong bọn họ có thể làm chồng Xan-ta-nát được nhỉ ?”. - Xa-bi-a, anh sinh viên chăng ? Không, anh này đẹp trai nhưng tính hay kiêu ngạo. Hay A-mát, nhân viên cửa hàng ? – Nhưng anh này đã có vợ rồi. Còn Noóc-ku-di thì tính tình xốc nổi, nhẹ dạ, thêm nữa anh ta lại hơi lùn. Có thể là "anh chàng có râu” Kha-lin chăng ? Tôi bắt đầu suy nghĩ lại.
Quả thật, Kha-lin chưa có vợ, là một thợ điện trẻ. Nếu ai đó trong chòm xóm có những trục trặc về điện, tìm đến anh, anh sẽ sẵn sàng giúp cho, không bao giờ từ chối. Ở anh có một cái gì đó giông giống Xan-ta-nát: tính tình hiền lành và giản dị. Tóm lại, đó là một cặp vợ chồng xứng đôi vừa lứa. Suy nghĩ đến đây, trong đầu óc của tôi đã hiện lên cảnh lễ cưới của hai người và tôi đang nói những lời chúc tốt đẹp cho đôi vợ chồng trẻ …
- Ê, chú bé ! Có gì mà trố mắt nhìn bọn ta kỹ thế ? – A-mát hỏi tôi.
- Chú còn nhỏ quá so với bọn ta mà ! - Noóc-ku-di thêm. Và thình lình anh ta nheo mắt một cách ranh mãnh, tiếp: - À ! nói đi nào ! Có phải chú mày mới mọc râu phải không ?
Xa-bi-a phụ hoạ:
- Đúng rồi ! Này, nếu chú mày mới mọc râu thì phải làm tiệc để khao mọi người, đó là một tục lệ ! Một bữa cơm chiên thịt để ăn mừng râu mọc, chú mày đã nghe rõ chưa ? Rồi chúng ta sẽ cho chú mày nhập bọn …
Bọn họ cùng cười vang. Tôi đỏ mặt xấu hổ. Cứ thế, mấy chàng thanh niên không ngớt lời đùa cợt về đề tài bộ râu của tôi …
Về đến nhà, tôi chạy ngay đến trước chiếc gương lớn trong góc tường, nhìn vào gương. Chẳng có gì cả, tôi chưa có râu. Hú vía !
Hôm sau, đi học về, tôi gặp Kha-lin.
- À, lại chú mày nữa! Sao, đã làm tiệc khao bộ râu chưa ?
Tôi dừng lại, chưng hửng… "Mình, mình muốn làm điều tốt cho một người, mà người đó lại …”. Chợt tôi trông thấy Xan-ta-nát đang đi phía bên kia đường, ăn mặc chỉnh tề, bước từng bước nhỏ như chim đa đa. Không nhìn chung quanh, chị thản nhiên đi trên con đường của mình. Và tôi thấy Kha-lin liếc nhìn theo chị.
- Chị láng giềng của tôi đấy ! – Tôi hãnh diện nói, chặn tia nhìn của Kha-lin lại.
- Có thật không, chị ấy là người láng giềng của chú mày à ?
Tôi bạo dạn hơn :
- Chị ấy là bác sĩ hộ sinh đấy !
- Bác sĩ, chú mày nói thật chứ ?
- Sao lại không ! Chị ấy hay… chích thuốc ! Chính mắt tôi trông thấy mà…
Kha-lin cười xòa.
- Anh có muốn tôi giới thiệu anh với chị ấy không ? – Tôi buột miệng nói, không biết điều ấy đã vọt ra khỏi miệng mình như thế nào. Nói xong, tôi đỏ mặt đến tận mang tai.
Kha-lin nói cho tôi đỡ ngượng:
- Chà ! Chú thật là một người lớn, dù chưa có râu …
Thình lình, anh đặt thẳng vấn đề:
- Được rồi, tôi bằng lòng. Nhưng chú làm thế nào để giới thiệu chúng tôi với nhau, hở ông bạn ?
Tôi im lặng vì chưa suy nghĩ gì về chuyện đó. Nhưng "đã là người lớn”, ai lại rút lại lời nói bao giờ ? Đã nói là phải làm. Và tôi tuyên bố một cách quả quyết:
- Trong trường hợp này, anh hãy đến nhà tôi vào ngày thứ Bảy. Sẽ tìm ra một cách gì đó chứ !...
O
Thứ Bảy, anh đến đúng giờ hẹn. Tôi xem anh như người đồng mưu và báo tin:
- Xan-ta-nát có một bình trà điện bị hỏng.
Kha-lin hiểu ngay ý tôi:
- Vậy thì chúng ta sang chữa đi. Em cùng đi với anh nhé !
Tôi dẫn anh sang nhà người láng giềng, bấm chuông gọi cửa. Xan-ta-nát ra mở cửa. Mẹ chị không có ở nhà.
- Tôi đem đến cho chị một người thợ điện. Hôm nọ chị có bảo…
Xan-ta-nát niềm nở chào chúng tôi và mời chúng tôi vào nhà:
- Mời các anh vào, rất hân hạnh…
- Tốt lắm, thế bình trà điện ở đâu ?- Kha-lin nói lắp bắp.
- Chốc nữa tôi sẽ chỉ nó cho anh. Nhưng trước tiên, mời các anh dùng một tách trà đã nhé !
Chị dẫn chúng tôi vào trong một căn phòng nhỏ và mời chúng tôi ngồi. Trong chốc lát, trà đã được dọn ra. Xan-ta-nát một tay đặt lên ngực vẻ trịnh trọng, một tay đưa tách trà mời Kha-lin, rồi đến tôi.
- Các anh tự nhiên nhé ! – Chị nói xong, đi ra ngoài.
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Tôi không thể nào nén được một nụ cười. Kha-lin nhíu đôi lông mày lại như để cho tôi biết rằng đây không phải là lúc có thể đùa được. Tôi hiểu ý và nhón lấy một miếng bánh kẹp trong dĩa bánh, ăn ngon lành, vừa khuyến khích Kha-lin:
- Anh ăn thử đi, ngon tuyệt !
Nhìn tôi ăn, anh bạn đồng hành của tôi hình như cũng có vẻ thèm muốn. Anh vừa đưa tay lấy một cái bánh kẹp thì Xan-ta-nát đi vào:
- À, mời các anh dùng bánh ! Những loại bánh lỉnh kỉnh ấy đều do tôi làm cả, "cây nhà lá vườn” mà …
Chị cầm tách trà của Kha-lin, rót trà nóng cho anh. Anh uống vội một ngụm lớn và … trợn mắt ! Tôi không nhịn được, phì cười. Nhưng Xan-ta-nát như không hay biết gì, vẫn mời mọc chúng tôi một cách tự nhiên. Kha-lin mặt đỏ như gấc, tháo mồ hôi hột. Anh đưa tay vào túi lục tìm khăn tay. Xan-ta-nát để ý đến cử chỉ của anh và đưa cho anh một cái khăn mặt. Anh lóng ngóng lau mặt, thế nào lại để rơi chiếc khăn vào trong dĩa bánh. Thế là anh lại bắt đầu đổ mồ hôi từng giọt lớn, cựa quậy một cách vụng về trong cái ghế cứ kêu cọt kẹt như một cái xe gỗ cũ kỹ…
Mắc cỡ, Kha-lin định hút một điếu thuốc lá để làm lối thoát. Anh mân mê điếu thuốc trong tay, nhưng suy nghĩ thế nào lại nhét nó lại vào trong gói: "Làm sao dám hút thuốc trong một căn phòng sạch sẽ như thế này ?”. Xan-ta-nát không nói gì, nhưng hình như bằng lòng với cử chỉ của Kha-lin. Cả ba chúng tôi đều im lặng… Tôi ném những tia mắt lo lắng về phía Kha-lin, sợ rằng anh lại làm những cử chỉ vụng về khác. Xan-ta-nát như nhớ lại một cái gì đó và lại đi ra ngoài:
G
- Tôi sẽ trở lại trong chốc lát…
Kha-lin chấm mồ hôi trán, thì thầm với tôi:
- Tôi chịu hết nổi rồi ! Chúng ta về nhanh đi thôi !
- Còn cái bình trà điện ?- Tôi nhắc anh – Chúng ta đến để chữa nó mà…
Xan-ta-nát trở lại và mời chúng tôi ăn dưa hấu. Tôi nuốt vội một miếng rồi quyết định đi ra ngoài: "Có thể không có tôi, hai người sẽ dễ nói chuyện với nhau hơn chăng ?”.
O
Trên cái ghế dài nhỏ gần cửa ra vào, tôi trông thấy cái bình trà điện bị hỏng, và lại gần xem xét : sợi dây điện bị đứt ở gần chỗ phích cắm. Tôi chữa nó chỉ trong nháy mắt.
Vừa lúc ấy, Kha-lin phóng người ra.
- Anh làm sao thế ? - Tôi hỏi.
- À, bên trong nóng nực quá ! - Và anh thẩn thờ móc gói thuốc lá nhàu nát từ trong túi ra …
Liền đó, cánh cửa lại bật mở và Xan-ta-nát đi ra:
- Sao các anh vội thế ? Tôi muốn mời các anh ở lại dùng cơm …
Chúng tôi cùng trả lời cám ơn và bước vội ra cổng.
- Anh làm cái gì thế ?- Tôi hỏi Kha-lin ngay.
- Tôi đã làm đổ bình trà …. Thật là hết chỗ nói !...
Bạn sẽ hỏi : Câu chuyện kết thúc như thế nào ?- Tất cả rồi cũng "đâu vào đấy” cả ! Xan-ta-nát và Kha-lin đã cưới nhau và có hai đứa con kháu khỉnh. Còn tôi, mỗi lần nhớ lại việc làm hồi thơ ấu của mình, tôi không khỏi cảm thấy một niềm hãnh diện: Dù sao, mọi việc cũng đã đi đến một kết thúc tốt đẹp !./.
SÔNG BỒ ( Trần Lực - 1985 ).
( Đã đăng trên báo Văn Nghệ )
( Đã đăng trên báo Văn Nghệ )
Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015
Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2015
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)