Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

Hồi đó : MÁ CỦA MẸ - Quân Phạm.





MÁ CỦA MẸ

Ngoại tôi ra đi vào một buổi chiều tháng chạp, cậu Năm tay cầm chén thuốc nam, tay lay lay ngoại gọi dậy để uống thuốc, miệng vừa kêu má ơi má à sao giờ còn ngủ, nhưng má - tức ngoại tôi – không bao giờ dậy nữa. Trong hố mắt sâu im lìm hằn vết chân chim là sự nhẹ nhõm. Cuối cùng, tôi cũng thấy ngoại thực sự được nghỉ ngơi.

Đám mất của ngoại buồn thôi là buồn, chiếc xe tang lăn bánh xiêu vẹo trên con đường cát trắng miền Trung, gió bấc thốc từng cơn vào lòng nghe buốt rát. Từng lời kinh của đoàn hộ niệm đưa tiễn ngoại theo gió đi xa, len lỏi vào từng rặng phi lao rì rào. Tôi vẫn nhớ hình ảnh mẹ tôi - một người đã mạnh mẽ xốc vác lo liệu cho hậu sự ra sao, nhưng khi người ta hạ quan lại ngồi thụp xuống đất, vừa lạy vừa nấc không thành tiếng, nước mắt nhỏ xuống huyệt sâu từng giọt ngắn dài. Đến tận bây giờ mẹ vẫn còn tâm sự với tôi: “Cả đời mẹ chỉ ân hận nhất là không lo cho ngoại tử tế, vì nhà mình nghèo quá”.  Chữ “nghèo” rơi ra trên môi mẹ tôi nhỏ dần, như sợ phải dằn thêm nỗi đau vào một nỗi đau khác.

Ngoại tôi sinh ra thời kỳ đất nước còn bom rơi đạn lạc, khoảng thời gian đó hầu như ai cũng khổ, nhưng qua những câu chuyện ngoại kể, từ “khổ” dường như nó chưa đủ diễn tả hết. Dòng họ bên mẹ tôi có truyền thống làm nghề bán cháo lòng, cái gánh cháo nặng oằn được bà Cố chuyền vai khi ngoại còn rất trẻ, mỗi ngày ngoại phải dậy từ hai giờ sáng, đi bộ mười hai cây số để gánh lòng về luộc, rồi rang gạo nấu cháo... Thuở ấy điện đóm còn thiếu thốn, trên con đường chập chờn lau sậy chỉ có tiếng chân bước trơ trọi và cây đèn dầu hột vịt treo đầu gánh le lói trong đêm. Trong suy nghĩ non nớt của những đứa cháu, những câu chuyện ma ngoại kể bên gánh cháo hồi trẻ luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ, và mỗi khi câu chuyện được kết thúc bằng việc ngoại tôi…bỏ chạy đều đem lại sự hụt hẫng cho mấy đứa nhỏ, đứa nào cũng chê ngoại nhát gan không dám đứng lại để chiến đấu…với con ma. Trong hình dung mà đám cháu mong đợi, bà tụi nó phải đứng lại cầm đòn gánh chiến đấu kiên cường như…Tề Thiên cầm gậy Như Ý. Mãi đến sau này vất vả mưu sinh, đi sớm về khuya một mình, tôi mới thấy thương bà thân gái dặm trường. 

Ngoại hồi xưa giỏi giang, lại siêng năm làm lụng nên cũng nhiều người qua mời trầu cau Cố - mấy cậu tôi kể vậy - nhưng Cố bảo để ngoại tôi tự lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Rồi trong một buổi chợ sớm, ngoại tôi gặp một nửa cuộc đời. Ông tôi khi đó là quân nhân của chế độ cũ, trên đường hành quân từ Huế tình cờ gặp nhau rồi bén duyên chồng vợ. Ông bà tôi có cả thảy năm người con, mẹ tôi thứ ba. Có một người đàn ông bên cạnh đỡ đần, chặng đường mưu sinh của Ngoại cũng đỡ chênh vênh.

Vợ chồng chưa đầu bạc răng long thì thế cuộc đổi dời, để tránh liên lụy cho gia đình, sau năm 75 ông lặng lẽ bỏ ra tận đất Phú Yên rồi biệt vô âm tín, chỉ còn lại bà cùng bầy con nheo nhóc. Tôi lúc đó còn chưa ra đời, nhưng qua lời kể của mẹ thì ngoại héo hắt, ít nói ít cười, cũng may bên cạnh ngoại còn có mẹ và các cậu quây quần, tiếng khua chén đũa bên mâm cơm chiều cũng sưởi ấm lòng đôi chút.

Cuộc sống đơn chiếc sau đó mỗi ngày mỗi cơ cực hơn, vì mẹ tôi là con gái duy nhất trong nhà nên được ưu tiên đi học, các cậu nghỉ học làm lụng, mỗi người một tay tiếp sức cho mẹ bước vào cánh cổng trường Y, thời đó nhà nào có con học hết Tú Tài đã là một niềm hãnh diện. Ngoại tôi chọn ở vậy không đi thêm bước nữa, gửi gắm hạnh phúc nhờ con mình viết tiếp, dựng vợ gả chồng cho từng người. Ngoại chẳng có gì để cho các con mình, chỉ cầm tay các cậu rồi rưng rưng: "Tại má nghèo quá…" 

Mẹ tôi lo học hành nên lập gia đình sau cùng, nhưng rồi mẹ gặp ba tôi trong một hội diễn dân công miền Trung, bước chân qua thềm đỏ rực xác pháo, mẹ bỏ lại giấc mộng ngành Y. Ngoại buồn nhưng không ép, chắc ngoại cũng nghĩ như Cố, hạnh phúc để mẹ tự tìm. Thời gian đầu ba tôi cũng làm ăn khấm khá, nhưng từng biến cố như từng đợt sóng dữ cuốn đi bao êm đềm. Không nhà cửa không tài sản, gia đình tôi dọn về sống ở nhà thờ bên nội, ba mẹ tôi làm đủ thứ nghề để nuôi chị em tôi khôn lớn. Ba có khi đi làm đạo tỳ đám ma, khi xuống bến đò bốc vác kiếm cơm qua ngày, mẹ ở nhà lo cơm nước và may vá cho người ta. Ngoại tôi không biết đạp xe, vẫn giữ thói quen đi bộ chục cây số để đến thăm và đem quà bánh cho chị em tôi trong chiếc giỏ nan. Chiếc giỏ làm bằng cói đã cũ mòn, ngoại để trong đó nào trầu cau, thuốc rê, vôi… mỗi lần lục giỏ ngoại mùi trầu non ngai ngái tỏa ra, đọng lại cay nồng nơi sống mũi. 

Những lúc ngoại qua thăm, tôi thấy mẹ như cây tre già gặp gió, ngồi bên cạnh níu lấy ngoại mà thở than. Có một điều mà tôi ấn tượng nhất, đó là chưa bao giờ nghe ngoại dằn vặt mẹ tôi vì lựa chọn của mẹ. Người nhà quê không biết ủi an, cũng chẳng nói lời hoa mỹ, nhưng ngoại có cách riêng để xoa dịu những nhọc nhằn mà mẹ trải qua. Nhiều lúc mẹ tủi thân khóc, ngoại cũng chỉ thở dài mà nói, nhìn lên mình không bằng ai, nhìn xuống mấy ai bằng mình, nghe con...

Ngoại tôi chịu nỗi đau kẻ đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh hai lần, lần đầu khi cậu Hai tôi nhập ngũ và hy sinh trên chiến trường Campuchia từ trước khi tôi được sinh ra. Lần thứ hai là lúc cậu Út tôi bị tai nạn ngoài biển, tôi vẫn hình dung ra dáng ngoại lưng còng ngồi trên bộ ngựa gỗ, đau đáu nhìn người ta đem cậu tôi về trong manh chiếu lạnh. Cầm nải chuối xanh dằn lên bụng con mình, mắt ngoại buồn như tượng, không khóc mà cũng chẳng nói năng. “Nước mắt chảy từ con mắt là thứ thường thôi”… ừ thì người ta nói vậy.

Cậu Út tôi nằm xuống để lại hai đứa con trai, thằng Bi theo mẹ về quê, thằng Nhí ở lại. Ngoại dọn về ở bên căn nhà lá liêu xiêu của cậu và sống với thằng Nhí, nuôi nấng dạy dỗ nó nên người. Nhà cậu tôi ở nơi hẻo lánh, vách lá không ngăn nổi từng lọn gió thổi qua cánh đồng hoang, ngọn đèn trên bàn thờ leo lét theo từng tiếng Nam Mô thổn thức.

Từ sau khi mẹ tôi đi lấy chồng, ngoại đã nghỉ buôn gánh bán bưng, sống nhờ con cái chu cấp và tiền mẹ liệt sĩ mỗi tháng mấy trăm ngàn (mà ngoại thường hay nói cậu Hai dù mất cũng còn nuôi ngoại). Các cậu và mẹ tôi ai cũng nghèo khó nhưng mỗi người một ít gửi qua gạo đường mắm muối, ngoại tự trồng rau cỏ quanh nhà, có gì ăn nấy. 

Có lần tôi cùng mẹ đi chợ mua thật nhiều đồ ăn, chưa kịp mừng thì thấy mẹ sang ra cả một giỏ đầy để đem qua cho ngoại, tôi còn nhỏ không suy nghĩ được nhiều, chỉ biết hờn mẹ vì thời đó nhà còn thiếu thốn trăm bề, tôi thì còm nhom. Bị mẹ la, tôi cố khóc to cho ngoại thấy, ngoại nghe được không trách, chỉ dỗ dành tôi và rầy mẹ: “Má ăn được nhiêu đâu mà bây đem nhiều qua làm chi rồi bỏ uổng, đem về bớt!” Tôi – trẻ con hả hê vì nghĩ là mình đã chiến thắng, để rồi sau này tôi – trưởng thành giận mình sao mà nông cạn. 

Năm tháng trôi qua, ngoại tôi càng ngày càng già yếu, những khớp xương từng oằn mình cõng cả bầy con giờ đây bắt đầu lên tiếng. Biết con cháu ai cũng khó khăn, ngoại cố giấu bệnh cho đến khi trượt chân té giữa thềm rêu ướt. Thằng Nhí mếu máo, nước mũi tèm nhem chạy xe đạp đi gọi bác Năm ơi cô Ba ơi. Kể từ đó ngoại tôi không đi lại được nữa, chỉ nằm một chỗ. Mẹ tôi khóa cửa nhà cậu Út, đưa ngoại và thằng Nhí về ở nhà cậu Năm tôi để tiện chăm nom cho đến ngày ngoại qua đời. Căn nhà đó đến nay vẫn nằm trên vườn cũ, cỏ dại mọc um tùm, mỗi lần đi ngang tôi vẫn hình dung dáng ngoại khệnh khạng súc khạp đựng nước mưa bên chái nhà, tiếng gáo cọ vào đáy khạp nghe xao xác.

Mỗi năm giỗ ngoại, mẹ ngồi rất lâu nhìn lên bàn thờ có tấm ảnh ngoại miệng còn đỏ màu trầu, mà người ta cắt ghép từ cái hình chụp chung với đám cháu Tết năm nào. Mẹ tôi cũng mang nhiều ân hận, nói cho cùng cũng vì chữ nghèo nên chữ hiếu chẳng thể vẹn tròn. Có lần ngoại đau chân xức nhiều dầu gió, mẹ cằn nhằn trong vô ý: “Má xài sao mà hao, con mới mua đây mà hết rồi”. Để rồi sau này ngoại mất, mẹ tôi cầm chai dầu còn chưa vơi ngay đầu giường ngoại mà khóc thôi là khóc. “Những câu đáng nói thì vì vô tâm , khờ dại nên không nói, những câu không đáng nói thì cũng vì vô tâm, dại khờ nên đã nói rồi, không lấy lại được..”

Sau này chị Hai tôi yên bề gia thất, tôi đi làm cũng có đồng ra đồng vô, gia đình dần bước qua thời cơ cực. Mẹ càng lớn tuổi thì càng giống ngoại, từng cử chỉ lời nói, tôi cũng không lấy gì làm lạ. Mà giống nhất cái khoản cần kiệm, chưa bao giờ tôi dẫn mẹ đi ăn ngon hay mua sắm gì mà mẹ không cằn nhằn sao mắc quá, uổng ghê. Mọi thứ tôi mua đều có thể quy ra “buổi chợ” của mẹ, giá cái áo này mẹ đi chợ được ba ngày, giá cái quần kia mẹ đi chợ được cả tuần... Tôi không biết những bà mẹ khác như thế nào, nhưng qua bóng hình bà ngoại và mẹ, tôi chỉ thấy sao mà những người phụ nữ xứ mình khổ quá, chỉ biết chắt mót lo cho chồng cho con suốt cả cuộc đời.

Gần đây dịch giã hoành hành ở quê, mẹ tôi cũng không tránh khỏi, tôi sốt vó lo thuốc thang, sợ người già khó chống chọi. Sau khi mẹ hết bệnh, nghe người ta bày ăn yến nhanh hồi phục sức khỏe, tôi chẳng nói trước mà mua về chưng cho mẹ ăn, mẹ giận tôi học đâu kiểu tiêu pha của nhà giàu. Lâu sau mẹ đem lên để bàn thờ ngoại, đốt một nén nhang, giọng mẹ trầm xuống: Hồi ngoại con bệnh mẹ cũng muốn mua này mua kia tẩm bổ, mà mẹ và các cậu không đủ điều kiện, chỉ buồn là “khi sống thì chẳng cho ăn, đến khi thác xuống làm văn tế ruồi” thì có ích gì đâu. Tôi thấu hiểu nỗi lòng của mẹ, nên tôi chẳng màng nhà cửa cao sang, chỉ nếu mai này chẳng may mẹ về với ngoại, thì việc duy nhất tôi mong là mình không còn gì phải ân hận.

Mỗi khi rằm tháng Bảy về, tôi bước bên cạnh mẹ vô chùa cầu an, trên ngực áo tôi cài bông hồng đỏ thắm, mẹ cũng lẳng lặng xin một bông màu trắng. Hai mẹ con quỳ dưới chân tượng Phật, từng lời kinh Vu Lan theo tiếng mõ đều đều nghe buồn tê tái.

“Điều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng,

Cực đến đâu bền vững chẳng lay,

Thứ tư ăn đắng nuốt cay,

Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con…”

Khói nhang ai đốt sao cay xè mắt. 

QUÂN PHẠM. 

Suy ngẫm : QUẠ VÀ CHIM SẺ - Thế Giới Văn Chương.

 


QUẠ VÀ CHIM SẺ. 

Một ngày nọ, giữa mùa Thu, một cơn gió mạnh thổi qua khu rừng. Bầu trời phủ đầy mây đen, và những chiếc lá lao vào một điệu nhảy điên cuồng, cuốn theo cơn lốc không thể kiềm chế. Giữa cơn bão đó, một con quạ bay qua cánh đồng thì đâm mạnh vào cành cây sần sùi của một cây sồi già. Với một tiếng quác nghẹn lại, nó rơi xuống đất, một bên cánh rũ xuống, gãy gập.

Con quạ cố gắng đứng dậy, giang cánh ra, nhưng một cơn đau nhói xuyên qua cơ thể nó. Nó hiểu rằng mình không thể tự đứng dậy được. Thế là, nó ngước mắt nhìn lên bầu trời – nơi những con chim khác vẫn đang bay vòng tròn – và cất lên một tiếng kêu đầy hy vọng:

— Cứu tôi với... tôi không thể bay nữa...

Một con chim ác là đi ngang qua nhìn thấy, bật cười khinh miệt:

— Mi đó à, kẻ kiêu ngạo, từng bay cao và nhìn xuống chúng ta... Và giờ thì cầu xin sự giúp đỡ sao?

Một con sáo, một con chim sơn ca, thậm chí cả một con giẻ cùi bay theo sau. Nhưng không con nào dừng lại. Ánh mắt lảng tránh của chúng mang theo vẻ khinh thường hoặc dửng dưng.

Con quạ cúi đầu. Một mình, đói khát, bị thương, nó cảm thấy niềm tin dần rời bỏ mình.

Nhưng bất chợt, từ một bụi cây gần đó, một giọng nói dịu dàng, nhỏ nhẹ cất lên:

— Tôi sẽ giúp anh... nếu anh không chê sức tôi yếu.

Đó là một con chim sẻ. Nhỏ bé, giản dị, màu xám như vỏ cây. Nó nhảy đến bên con quạ, ngậm một mẩu bánh mì khô trong mỏ. Rồi nó quay lại, mang theo một giọt nước, một chiếc ổ bằng lá khô, và xây tổ dưới gốc cây.

— Tại sao cậu làm vậy? — Con quạ thì thầm, ngạc nhiên.

— Bởi vì anh vẫn còn sống. Và nếu tôi là người ngã xuống, tôi cũng mong có ai đó không quay mặt làm ngơ.

Ngày tháng trôi qua. Con quạ, ban đầu không thể cử động, được con chim nhỏ canh chừng, chăm sóc, sưởi ấm. Chim sẻ chia phần vụn bánh của mình, kể chuyện về cuộc sống trong rừng, và canh gác suốt những đêm lạnh buốt. Và khi cuối cùng con quạ có thể dang cánh trở lại, suy nghĩ đầu tiên của nó không phải là cho bản thân, mà là cho người bạn nhỏ nay đã trở nên quý giá hơn tất cả.

Mùa xuân đến trong ánh sáng rực rỡ và tiếng hót líu lo. Nhưng một buổi sáng, khi chim sẻ đang mổ những hạt giống trong trảng cỏ, một con chim ưng từ bụi cây lao ra. Mọi chuyện xảy ra quá nhanh — chim sẻ thậm chí còn chưa kịp kêu lên.

Nhưng bỗng nhiên, một bóng đen xé ngang bầu trời. Con quạ, mạnh mẽ và lộng lẫy, lao thẳng vào kẻ săn mồi. Đôi cánh nó đập mạnh đến nỗi gió rít lên. Nó đâm sầm vào con chim ưng và khiến nó phải bỏ chạy.

— Anh đã cứu tôi... — Chim sẻ thở hổn hển.

— Không, chính cậu mới là người đã cứu tôi trước tiên, — con quạ đáp. — Và giờ tôi biết rằng lòng tốt không đo bằng sải cánh. Một trái tim vĩ đại có thể nằm trong một cơ thể nhỏ bé nhất.

----------------------

Đừng bao giờ xem thường những ai yếu đuối hơn mình. Có những người tưởng chừng nhỏ bé lại trở thành chỗ dựa lớn lao nhất. Và lòng tốt được trao đi mà không mong hồi đáp sẽ luôn quay trở lại — vào lúc ta không ngờ nhất, nhưng cũng là lúc ta cần nó nhất.


Trang Thế Giới Văn Chương

Thơ : LỜI TÌNH CUỐI - Dung Hạ (fb)

 


LỜI TÌNH CUỐI


Tạm biệt nhé, mùa thơ xưa lộng lẫy

Rồi cũng tan theo tro lạnh cuối chiều

Xin đừng khơi đốm lửa tàn buổi ấy

Chẳng thể làm ấm lại giấc mơ yêu!


Hãy cứ để nồng nàn xưa yên giấc

Mộng đời nhau giờ sớm đã chôn vùi

Có níu kéo những ngọt ngào đã mất

Cũng chỉ làm thêm cay đắng nhau thôi!


Bởi đã rất yêu nên không còn nợ

Bởi từng rất xa nên đủ ngậm ngùi

Và như thế, chẳng còn gì hối tiếc

Sẽ an lành, ngày tháng lặng thầm ơi!


DUNG HẠ (FB) 

14.5.2025

Thơ vui : VỊNH CON RẮN - LHN.

 



Năm Tỵ vịnh con Rắn...

VỊNH CON RẮN. 

Tỵ vẽ kiểu gì vẫn thấy ghê

Dòm là muốn chạy , khó mà mê

Cọp thì mấy bả còn ưa bắt

Rắn chắc nhiều ông cũng phát chê

Chỉ có hổ mang ngâm thuốc bắc

Hoặc may bợm nhậu tưởng Sa Kê

Bạch Xà phải hóa ra hoa hậu

Mới dụ được người cõi tục phê .

LHN

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2025

Thơ : NHỚ MÙA PHƯỢNG VĨ - Thơ và Tình.

 



NHỚ MÙA PHƯỢNG VĨ 

Tháng Năm chưa đi

Tháng Sáu đã lấp ló bên hè

Hoa Lộc Vừng trên đê vừa hé nở

Những chuỗi nụ

đong đưa theo gió

Xoè yếm non chào đón mùa sang


Tháng Sáu

và cái nắng chang chang

Rang khô cả... cọng rơm cuống rạ

Tiếng Ve ru

khê nồng vòm lá

Gọi đàn Trâu hối hả xuống ao làng


Hoa Phượng hồng

rải dọc lối ngang

Níu chân ta... lang thang  miền xa vắng

Buổi học cuối...

bỗng dưng trầm lặng

Ngày mai ơi

xa cách nhau rồi


Cánh Phượng hồng

người tặng tựa son môi 

Giây phút cuối bên nhau trong lớp học

Mắt nàng ấy

ngấn ngần chực khóc

Thương ngày mai rồi sẽ ra sao...?


Tháng Sáu...

rồi tiếp tiếp Tháng Sáu sau

Đã bao mùa Xuân đi nhường Hạ đến

Và cứ thế...

bấy nhiêu mùa lỡ hẹn

Sân trường xưa... nay còn mỗi tiếng Ve...!


Ve Sầu khóc nức nở

có ai nghe...?

Cánh Phượng rớt trên hè... còn tươi rói

Tháng Sáu ơi

sao mình ta đứng đợi

Người ở đâu... không tới... cứ ơ thờ.

20/5/2025

THƠ VÀ TÌNH. 

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

Thơ : YÊU RỪNG - Giáng Hương.

 



YÊU RỪNG                              

Nhớ thời tuổi trẻ lâm trường      Trèo đèo lội suối xem thườn hiểm nguy                                        Giữ rừng xanh mãi diệu kỳ          Ta nhà lâm nghiệp ngại gì nắng mưa                                                  Hưu rồi ôn lại ngày xưa                Bao nhiêu kỷ niệm, chiều mưa, nhớ rừng!...                  

Ai ơi gian khổ đã từng                  Tháng tư ngày hẹn ta mừng gặp nhau.                                      

Điều tra quy hoạch gian lao        Lội rừng sốt rét nhưng sao vẫn trèo?                                                  Tình yêu nghề đã cuốn theo        Chim ca vượn hú suối reo mây ngàn                                                  Yêu sao chiều nắng hanh vàng                                                                Cánh rừng xanh mướt ngập tràn niềm vui!...                                           (Cảm hứng tháng 4/2025)

GIÁNG HƯƠNG. 

Ngày của mẹ : CHIẾC ĐÒN GÁNH... - Sưu tầm.

 



CHIẾC ĐÒN GÁNH... GÁNH CẢ CUỘC ĐỜI CỦA CON THƠ...!


Chiếc đòn gánh và đôi gióng, một biểu tượng đẹp cho tâm hồn, cốt cách của người phụ nữ Việt Nam...! Nét đẹp dung dị, đời thường ấy từng được nhà văn Mỹ E.Shillue hứng thú ghi lại một cách vừa chân thực, vừa đậm chất nghệ thuật: “Bà bán hàng rong mang trên vai một vật lãng mạn nhất ở phương Đông: Cái đòn gánh…! Bà nhẹ nhàng bước đi, nó như điệu múa, nhún nhảy bên phải rồi bên trái đi ra khỏi xóm nghèo...!
Chẳng rõ cái vật “lãng mạn nhất ở phương Đông” ấy có tự bao giờ...? Chỉ biết được rằng, nó luôn in đậm hình ảnh các bà, các mẹ, các chị gánh gồng ngược xuôi qua không biết bao gian nan, thử thách…!
Chiếc đòn gánh và cặp thúng rổ là những thứ vật dụng được làm ra từ sự sáng tạo của trí óc cùng đôi bàn tay khéo léo của những người cần lao. Nếu người phương Tây khi lần đầu tiên nhìn thấy hình ảnh người phụ nữ Việt thoăn thoắt ngược xuôi với chiếc đòn gánh trên vai sẽ ít nhiều mang đến cảm giác lạ lẫm xen chút thú vị, ngạc nhiên. Nhưng trong tiềm thức của mỗi người, hình ảnh ấy lại thân thuộc, gần gũi đến nao lòng...! Khi thấy cái cảnh trên cái rổ tre lớn có hai đứa con thơ bé bỏng chưa biết thế nào là nỗi vất vả gian nan của người má thương yêu…!
Có lẽ, trong tâm thức những đứa trẻ sinh ra từ làng không sao quên được kỉ niệm thuở nhỏ cùng má rong ruổi khắp nơi trên đôi quang gánh nhọc nhằn…! Từ những con đường làng quê nghèo khó đến góc chợ rộn ràng kẻ bán buôn... Thân cò lặn lội là má, là biển trời đầy ắp tình thương yêu dành cho con cũng là má...! Ấy vậy mà, suốt những năm tháng gánh gồng những đứa con thơ dại, má chẳng bao giờ cất lời than vãn, kể lể với ai...!
Niềm vui, niềm hạnh phúc của con được đắp đổi từ tình yêu thương, đức hi sinh lớn lao vĩ đại của má. Bằng đôi vai gầy, người đã gánh cả tuổi thơ con…! Má luôn bên con từ khi mới sinh ra, khi con nhỏ dại đến lúc trưởng thành...! Và đến lúc con thành nhân, thành danh cũng là lúc mắt má mờ, lưng má còng phải dựa vào vai con, và khi giật mình nhìn lại, con chợt thảng thốt nhận ra má mình đã già...! Chiếc đòn gánh đã mất đi tự bao giờ. Nếu còn chăng, nó đứng buồn thênh ở góc bếp tối tăm đầy ám khói bụi...! Nó cũng đã từng đưa ta đi khắp chốn chợ quê, ru ta ngủ ngon lành, say sưa bên tiếng kêu kẽo kẹt phát ra từ trên đôi vai gầy của má...! Thỉnh thoảng má bảo rằng: "Ngày xưa nuôi con vất vả cực nhọc nhưng không thấy lo lắng bồn chồn bởi các con luôn ở trong vòng tay của mẹ, bây giờ con cái lớn hơn nhưng cuộc đời vốn đầy rẫy cám dỗ, tai ương… ai biết đâu là cạm bẫy...! Gánh con..., má gánh cả một đời...! Chiều nay, bước ra đường nhìn hình ảnh các cô gánh hàng rong trên phố, giữa dòng xe cộ ngược xuôi, tấp nập, lòng bỗng lặng đi vì xúc động, trong lòng thầm gọi: -Má ơi...!
SƯU TẦM ( aihuubienhoa.com )

Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2025

Thơ : CHIỀU RƠI BÓNG MẸ - Phan Minh Lệ.

 


.... nhân "NGÀY CỦA MẸ 2025"

CHIỀU RƠI BÓNG MẸ


Chiều rơi bóng Mẹ liêu xiêu

Vầng trăng xưa cũ vẫn nhiều vấn vương

Đôi vai quẳng gánh lên đường 

Sáng qua chợ sáng, tà dương gánh về


Mẹ đi bao dặm sơn khê

Gót mòn vai nhỏ cơn mê ngày dài

Nét Xuân Mẹ đã tàn phai

Nụ cười dâu bể bi ai một đời


Đã qua rồi cuộc rong chơi

Đường trần xin trả cuộc đời đa đoan

Đã qua sóng chớp mưa ngàn

Đã qua hết những đoạn trường đắng cay


Đêm nằm lệ chảy mòn tay

Liêu xiêu bóng Mẹ bước dài trong mơ 

Nước vẫn chảy đá vẫn trơ

Nghe sầu theo gió phất phơ liễu buồn


Quê nhà qua mấy đồi nương

Chân mây ngày cũ còn vương bóng người

Con giờ núp bóng mồ côi 

Chiêm bao gặp Mẹ, con phơi nỗi sầu


Đêm nghe cuốc gọi rừng sâu

Tưởng trong tiếng gió Mẹ ầu ờ ru

Mẹ thầm  vào cõi thiên thu

Chiều rơi bóng Mẹ sa mù cõi không.

PHAN MINH LỆ.

Mùa Vu Lan Ất Tỵ

Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2025

Cuộc sống : LUẬT SƯ & GIÁO SƯ - Sưu tầm trên FB.



LUẬT SƯ & GIÁO SƯ 

 Một luật sư đã bán cái giếng của mình cho một giáo sư. Hai ngày sau, luật sư đến gặp giáo sư và nói: "Thưa ông, tôi đã bán cho ông cái giếng, nhưng không kèm theo nước. Nếu ông muốn sử dụng nước, ông sẽ phải trả thêm phí".

Giáo sư mỉm cười và nói: "Vâng, tôi sắp đến đón ông. Tôi định nói rằng ông nên lấy nước ra khỏi giếng của tôi, nếu không ông sẽ phải bắt đầu trả tiền thuê giếng từ ngày mai".

Nghe vậy, luật sư trở nên lo lắng và nói: "Ồ, tôi chỉ đùa thôi"!

Giáo sư cười và nói: "Đây là cách những người như ông trở thành luật sư sau khi học với chúng tôi".

SƯU TẦM. 

( #nhungcauchuyennhanvan )

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

Thơ : HOÀI NIỆM - Gia Bảo (FB)

 



HOÀI NIỆM 


Có những đêm thao thức 

Nhớ quay quắt một người 

Giờ không còn chung lối 

Chỉ lặng thầm thương thôi 


Hạnh phúc ở trên đời 

Là biết buông, biết nắm

Khi bàn tay thôi ấm 

Buông, nắm.. đều rất đau


Bao hẹn ước mai sau

Chẳng cùng nhau chia sẻ 

Cố tỏ ra mạnh mẽ 

Trong lòng càng bão giông


Tình yêu quá mong manh 

Khi chân thành đã hết 

Níu giữ thêm mỏi mệt 

Nên chọn cách rời xa


Hẹn ước ngày hôm qua 

Giờ tan tành vụn vỡ 

Đường tình duyên đã lỡ

Sao còn nhớ thương hoài ..!?


GIA BẢO. 

05.05.2005

Thơ : CHIỀU QUA ĐÈO ĐÁ LỬA - Đông Ry Nguyễn.

 

( Hình ảnh có A.I trợ giúp )


CHIỀU QUA ĐÈO ĐÁ LỬA*

(Tâm sự một người đi tìm minh chủ sau tháng 4/75)


        •Chiều buông 

         mưa lạnh qua đèo 

         Kìa em, dựng quán

         tranh nghèo bên non

         Vào ta uống chén rượu buồn 

         Vỗ gươm hát khúc

         ca cuồng với ta …

        •

         Trời bao la …

          đất bao la …

          Chừ, 

          ta sao lại 

          không nhà dung thân?

          Ai khai quốc,

          ai công thần 

          Chừ,

          tan nát cả 

          muôn phần giang san?

          Ai xui cởi giáp quy hàng 

          Chừ,

          đau tiếc ngọc 

          thương vàng hỡi ôi?

          Ta đi tìm khắp nơi nơi

          Chừ, ai minh chủ …

          ai người dân nương?

          Cờ đi lạc nước sai đường 

          Chừ,

           say  

           ngậm khúc 

           đoạn trường làm nguôi!

            •

           Tạnh mưa rượu cũng cạn rồi 

           Trả em nén bạc 

            gượng cười chào nhau

            Về đâu, 

            ta biết về đâu …

            Trời nam ảm đạm 

            một màu tang thương?!


             -Chàng Đông Ry Nguyễn.1976

(*Đèo Đá Lửa nằm ở vùng rừng núi phía Tây Nha Trang)

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2025

Thơ : THÁNG NGÀY YÊU DẤU - hathuthuy.

 


THÁNG NGÀY YÊU DẤU. 

Muốn dang tay ôm trọn nghìn giọt nắng

Nhuộm trên đầu những ngọn sóng già nua 

Vẫn hồn nhiên vỗ vào bờ bãi lặng

Thật nồng nàn ru cát khúc tháng năm.

Muốn thả tóc bay trong chiều biển gió 

Cảm nhận được ngàn ve vuốt trùng khơi 

Để còn nghe hồn ngập tràn thương nhớ 

Về tháng ngày yêu dấu đã xa rồi.

hathuthuy

Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2025

Thiên nhiên : CÁ VOI XANH - St trên FB.

 


CÁ VOI XANH.

Khi nhìn thấy hình ảnh này – một chiếc thuyền nhỏ bé và một cá thể cá voi xanh khổng lồ – ta mới thật sự cảm nhận được sự kỳ vĩ, nhưng cũng vô cùng mong manh của tự nhiên.

Cá voi xanh - sinh vật lớn nhất từng tồn tại trên Trái Đất – có thể dài tới 29,9 mét và nặng tới 173 tấn. Để so sánh, nó dài hơn một sân bóng rổ và nặng gấp ba lần một chiếc Boeing 737 trống! Tuy nhiên, bất chấp vóc dáng khổng lồ ấy, cá voi xanh lại hiền hòa đến lạ thường, di chuyển duyên dáng như một vũ công giữa đại dương rộng lớn.

Những sự thật kỳ diệu về cá voi xanh:

 Nhịp thở của biển cả

Mỗi lần ngoi lên mặt nước, cá voi xanh có thể phun một cột nước cao tới 9 mét – như một lời chào trầm lắng giữa mênh mông sóng nước.

 Trái tim khổng lồ

Trái tim của một cá voi xanh có kích thước tương đương một chiếc xe hơi nhỏ và nặng tới 450 kg. Đặc biệt, tiếng đập tim của nó có thể nghe được từ cách xa 3 km dưới nước.

 Chế độ ăn "nhỏ bé"

Dù to lớn như vậy, thức ăn chính của cá voi xanh lại là những sinh vật bé xíu – nhuyễn thể (krill). Mỗi ngày, chúng có thể tiêu thụ đến 3,6 tấn nhuyễn thể!

 Tốc độ đáng kinh ngạc

Khi cần thiết, cá voi xanh có thể đạt vận tốc lên tới 50 km/h, dù bình thường chúng chỉ bơi thong thả ở khoảng 5–20 km/h.

 Biểu tượng mong manh của đại dương

Dù từng có số lượng hàng trăm nghìn cá thể, ngày nay cá voi xanh được liệt kê là loài có nguy cơ tuyệt chủng. Săn bắt quá mức trong thế kỷ 20 đã khiến số lượng của chúng suy giảm nghiêm trọng. May mắn thay, những nỗ lực bảo tồn trong những thập kỷ gần đây đang giúp chúng dần hồi phục.

Giữa đại dương sâu thẳm, gã khổng lồ hiền lành ấy vẫn đang lặng lẽ di chuyển, nhắc chúng ta nhớ rằng:

Trái Đất này vẫn còn những điều kỳ diệu cần được trân trọng và bảo vệ.

Bạn có ước mơ một lần chạm mặt loài sinh vật huyền thoại này giữa lòng đại dương bao la?

SƯU TẦM. 

Suy ngẫm : BÀ CHỦ QUÁN - Mây Lang Thang.

 



BÀ CHỦ QUÁN

Một gã da trắng giàu có bước vào quán rượu🍷

Trong quán toàn khách da trắng, trừ một phụ nữ da đen ngồi trong góc. Hắn rút chiếc ví dày cộp rồi nói với quản lý: "Tôi đãi mỗi người một ly, trừ bà da đen kia". Quản lý liền làm theo. 

Người phụ nữ da đen đứng lên lễ phép cúi đầu "Cảm ơn ngài".

Gã kia bực bội "Này quản lý, tôi đãi khách sâm banh thoải mái, trừ người đàn bà da đen kia". 

Bà da đen lại đứng lên lễ phép"Cảm ơn ngài".

Gã nhà giàu điên tiết "Các vị muốn ăn gì cứ gọi, Tôi đãi… trừ mụ da đen này."

Bà da đen lại lễ phép "Cảm ơn ngài."

Gã da trắng tiến lại phía tay quản lý và hỏi nhỏ "Mụ ấy điên à? Tôi cư xử vậy mà mụ ta cảm ơn hoài".

- Dạ, ngược lại, bà ấy rất thông minh ạ. Bà ấy chính là chủ quán.

MÂY LANG THANG. 

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

Thơ: GIÁ CỦA CHIẾN TRANH - Thơ Và Tình.

 


 GIÁ CỦA CHIẾN TRANH 

Giá của chiến tranh... nào ai đã đếm đong

Và có lẽ chẳng bao giờ đong đếm nỗi

Bao nhiêu cái chết của người vô tội

Có đáng để Các Ngài dùng đến chiến tranh...!


Giá của chiến tranh... là cha mất con là em mất anh

Là vợ mất chồng là con mất mẹ

Là những đứa trẻ mồ côi là những tấm thân tàn phế

Những làng thôn những thành phố bị san vùi


Giá của chiến tranh... là kéo nhân loại giật lùi

Bom đạn chôn vùi biết bao làng mạc

Những thành phố mộng mơ những đồng hoa bát ngát

Bỗng chốc thành màu đất nâu


Giá của chiến tranh...  là dòng máu chảy chẳng biết về đâu

Chảy vào túi tham quyền tham tiền không đáy

Vào kho bạc chưa bao giờ che đậy

Của những lái buôn vũ khí giết người...!


Giá của chiến tranh... không chín cũng mười

Là quá đắt chẳng ai bù đắp nổi

Kẻ có tội và người vô tội

Đều là nạn nhân chiến tranh


Hãy xây dựng thế giới... chung một màu xanh

Loại bỏ hết mọi cuộc chiến tranh xâm lược

Một thế giới mà loài người mơ ước

Ở đó Công lý được tôn vinh.

THƠ VÀ TÌNH. 

30/4/2025 (Erneut posten)

Tản mạn : ĐẤT ÔM ANH... - Mai Bá Kiếm (FB)

 




ĐẤT ÔM ANH ĐƯA VỀ CỘI NGUỒN.


Mỗi năm cứ vào dịp 30/4, tôi, Khang (Không quân) và Trung (Bộ binh) rủ nhau đi thắp nhang ở Nghĩa trang Quân đội Biên hoà (năm 2006 đổi tên thành Nghĩa trang nhân dân Bình An). Trước tiên chúng tôi thắp nhang ở Nghĩa dũng đài, sau đó thắp nhang từng khu mộ đặt tên theo mẫu tự (năm sau thắp nhang ở khu mộ khác). Năm nay, tôi điện Khang và Trung đều từ chối vì bận, tôi rủ đứa em tên Kim, chẳng liên quan "bên thua cuộc" nhưng sẵn lòng đi viếng.

Sở dĩ tôi nặng lòng với các anh đã nằm xuống tại nghĩa trang này, vì tôi có hai ngày gác linh cữu Châu Minh Nhạn, bạn đồng khóa 3/72 Thủ Đức. Số là tháng 11/1972, khóa 3/72 dừng huấn luyện, đi về các chi khu tuyên tuyền Hiệp định Paris. Nhạn về một chi khu ở miền Tây, bị du kích phục kích, bắn chết. Tôi và các bạn chờ chuyển sang Không quân lên Nghĩa trang gác linh cữu Nhạn trong 2 ngày. Hai người bồng súng đứng ở đầu hòm gác 1 tiếng. Sau giờ gác, tôi tò mò đi xem "quy trình công nghệ chôn cất tử sĩ": Kế khu tử sĩ đường (nơi quàn các quan tài) có sân đáp trực thăng. Hôm đó đầu tháng 12/1972, chiếc trực thăng tải thương chở 4 tử sĩ từ Hậu nghĩa về đáp xuống. Tôi ra xem, 4 xác được quấn poncho, buộc vào băng ca bằng dây dù. Xác bị sình như đòn bánh tét, chỗ nào buộc dây dù thì lõm xuống. Khi trực thăng cất lên, tôi thấy nó sơn màu trắng có 4 chữ thập đỏ ở trước mũi, ở hai bên hông và dưới bụng. Không biết Phạm Duy có chứng kiến cảnh này không mà ông viết rất hình tượng "Trên trực thăng sơn màu tang trắng", "poncho buồn liệm kín hồn anh".

4 tử sĩ được đưa vô phòng rửa xác. Lính nghĩa trang dùng kéo cắt quân phục, vì nó bó chặt thi hài, họ dùng chất tẩy compound, xịt nước vào nổi bọt giống bọt tuyết rửa xe. Thi hài trần truồng, sứt mẻ nhiều phần thi thể. Trung úy chỉ huy Liên đội chung sự cho biết, năm 1967 có quân y may vá chỗ mất trên cơ thể cho thân nhân bớt đau lòng, nhưng từ "Mùa hè đỏ lửa 1972" đến nay tử sĩ nhiều quá, mất đâu để vậy người ơi!

Sau rửa, xác tử sĩ được bỏ trong túi ngủ cho vào ngăn lạnh bảo quản, khi thân nhân đến đem ra tẩn liệm. Nghi thức an táng có 6 anh lính bồng súng đi hai bên ra tới huyệt, bắn chỉ thiêng 6 phát đạn. Đầu tháng 12/1972, các trận Bình Long, Kontum, Quảng Trị "mùa hè đỏ lửa" đã xong, nhưng tử sĩ vẫn đông và rất trẻ, hầu hết sinh 1954, tức 18 tuổi. Có quan tài để chân dung một cô gái, trung úy chỉ huy liên đội chung sự kể, lính tẩn liệm tìm trong bóp tử sĩ không có hình anh, mà chỉ có hình người yêu mới đem để trên đầu hòm.

VNCH tôn trọng tâm linh, nghi thức tống táng hơi bị thê lương. Bên phải khu nhà quàn có khoảng 60 quan tài tử sĩ đạo Phật, bên trái khoảng 40 quan tài tử sĩ Công giáo. Vị Linh mục cầm tô nước và một bông hồng trắng rải nước thánh lên đầu hòm và đọc kinh, hết 40 hòm chừng 40 phút. Trong khi đó, hòa thượng Thích Thanh Bối đọc kinh cúng cơm cho từng quan tài, dù đã "nhận lớp trích đoạn" mỗi quan tài chỉ mất 3 phút, 60 quan tài mất 3 tiếng, cúng cơm sáng và chiều mất 6 tiếng. Hòa thượng Thích Thanh Bối đã cúng cơm cho cả chục ngàn tử sĩ!  

Có mục kích thi hài không toàn vẹn của tử sĩ mới biết đau lòng cho những người đã nằm xuống

MAI BÁ KIẾM. 

Thơ : NGHĨ VỀ BÀI NHẠC... - Bùi Chí Vinh.

 

(Người bên tay phải là nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, bên cạnh là cố Đại úy Vũ Mạnh Hùng, nhân vật chính của bản nhạc RỪNG LÁ THẤP tử trận Tết Mậu Thân 1968)

NGHĨ VỀ BÀI NHẠC "RỪNG LÁ THẤP" CỦA 

TRẦN THIỆN THANH 


Đây là bài nhạc lính Việt Nam Cộng Hòa 

Nhưng hồi ở bộ đội chúng tôi ca liên tục 

Chúng tôi thiếu nhạc tình, nhạc nói về sự thật 

Về cuộc sống chúng tôi giữa rừng núi sình lầy 


Lời ca trách móc nhẹ nhàng mà chất chứa đắng cay 

Sao không hát cho những người đi giết giặc 

Sao không hát cho mẹ già từng đêm rơi nước mắt 

Sao không hát cho tất cả chiến binh gian khổ xa nhà 


"Từ máy thu thanh cô nàng vừa ca "

Ca trong phòng lạnh vốn ngọt ngào êm ái 

Ca an toàn ở hậu phương mà nhói lòng người quan tái 

"Đừng hát như chim trên vùng lá sầu" 


Cuộc chiến đã qua lâu rồi chỉ còn bài nhạc bể dâu 

Là lính đặc công thủy hay nhảy dù cũng vậy 

Chúng tôi chỉ cần hình ảnh người con gái 

Hiểu "Lính giữa rừng yêu lá thấp mà thôi" 

3-4-2025

BÙI CHÍ VINH.


Suy ngẫm : KHÔN NGOAN &ĐIỀM TĨNH - St trên FB.

 


KHÔN NGOAN & ĐIỀM TĨNH 

Ai mà ngờ rằng Socrates — nhà triết học vĩ đại nổi tiếng với sự khôn ngoan, điềm tĩnh và những lời nói sâu sắc — lại sống với một người phụ nữ luôn thử thách sự kiên nhẫn của ông? Vợ ông nổi tiếng với chiếc lưỡi sắc bén, tính cách thích làm chủ mọi thứ với những cơn thịnh nộ. Mỗi sáng, bà đẩy ông ra khỏi nhà khi mặt trời mọc, và ông chỉ trở lại khi mặt trời sắp lặn.

Tuy nhiên, bất chấp tính cách khó khăn của bà, Socrates luôn nói về bà với sự tôn trọng và thậm chí là lòng biết ơn. Ông từng thừa nhận rằng một phần sự khôn ngoan của ông có được nhờ bà, bởi nếu không có những thử thách hàng ngày như vậy, ông sẽ không bao giờ học được rằng trí tuệ thực sự sống trong sự im lặng, và bình an được tìm thấy trong sự tĩnh lặng.

Một ngày, khi ông ngồi cùng các học trò, bà lại bắt đầu la mắng ông như thường lệ — nhưng lần này, bà đổ nước lên đầu ông. Không nao núng, Socrates chỉ lau mặt và bình tĩnh nói, “Chà, sau tiếng sấm, mưa là điều dễ hiểu.”

Câu chuyện của bà kết thúc đột ngột. Trong một cơn gi.ận d.ữ khác, khi Socrates, như mọi khi, vẫn giữ sự bình tĩnh và im lặng, cơn thị.nh n.ộ của bà đã áp đảo. Bà bị đ.ột quỵ và qua đời ngay đêm đó. Trong khi bà bùng lên như một cơn bão, Socrates vẫn là một biển cả bình yên.


Tên bà dần dần phai mờ trong lịch sử. Sự điềm tĩnh của ông trở thành huyền thoại. Đây không chỉ là một câu chuyện về mâu thuẫn — mà là một lời nhắc nhở rằng sức mạnh thường thể hiện trong im lặng, và những người thầy vĩ đại đôi khi lại ẩn mình dưới hình hài của những con người khó khăn nhất trong cuộc sống.

Sưu tầm trên FB. 

Thơ : TỐI VĂN CÔNG - Lưu Trọng Văn.

 


TỐI VĂN CÔNG


Cô ca sĩ bước ra sân khấu

Chỉ có lính và lính

Bỗng ánh đèn phụt tắt

Một tiếng gào:

Chỉ cần tụt quần! 


Những tiếng cười

Đèn bật sáng

Sân khấu trống hoác

Cô ca sĩ biến đâu rồi?

Cả cánh rừng già Trường Sơn im lặng

Ngoài tiếng côn trùng ỉ ôi


Thằng nào vừa đòi tụt quần đấy?

Có gan thì đứng lên nào!

Một cái đầu nhô lên

Rồi cái đầu thứ hai

Rồi lố nhố những cái đầu xơ xác tóc


 Góc rừng

Cô ca sĩ rấm rứt khóc

Những thằng lính đi về phía có tiếng khóc

Đừng giận tụi anh, em ơi!

Tiếng hát ở đây không thiếu

Chỉ thiếu gái cởi truồng thôi


LƯU TRỌNG VĂN - 27.3.1975. Trà Mi, Quảng Đà.

Kỳ lạ : LOÀI CÂY "GỌI" SÉT - Sưu tầm.

 


LOÀI CÂY "GỌI" SÉT.

Loài cây dị biệt biết "gọi sét" để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh...

Không có gai nhọn, không chất độc, không mọc rễ chèn ép đối phương - nhưng cây tonka vẫn âm thầm "loại bỏ" mọi đối thủ bằng một chiến thuật sinh tồn chưa từng thấy: GỌI SÉT Để ghi lại các sự kiện sét đánh, nhóm đã lắp đặt hệ thống cảm biến điện trường, camera chuyên dụng và cả flycam để theo dõi diễn biến tại chỗ. Trong suốt quá trình Ttheo dõi, họ ghi nhận gần 100 cú sét đánh trực tiếp vào cây tonka. Kết quả rất bất ngờ: Thay vì cháy xém, gãy đổ hay chết héo, cây tonka gần như không hề hấn gì. Ngược lại, các cây nhỏ và dây leo ký sinh xung quanh lại chết hàng loạt - tạo nên một "vùng chết sinh học" quanh thân cây. Lý do cho sức mạnh "đặc biệt" này nằm ở cấu trúc sinh học đặc biệt của cây. Với chiều cao lên đến 40 mét, thân cây tonka giống như một "cột thu lôi sống" trong rừng. Nhưng khác với nhiều cây khác, nó có khả năng dẫn truyền điện tốt mà không giữ nhiệt, nhờ cấu tạo gỗ đặc biệt giúp phân tán năng lượng mà không gây nổ hay cháy thân cây. Giống như một dây điện có lớp cách nhiệt hoàn hảo, cây tonka "truyền sét" xuống đất mà vẫn giữ được sự sống. Đây là "chiến lược sinh tồn thông minh bậc nhất của cây thân gỗ". Việc tận dụng sét để tiêu diệt đối thủ và mở rộng không gian sống là điều chưa từng được ghi nhận rõ ràng trước đây trong giới thực vật.

SƯU TẦM ( Youtube )

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2025

Chuyện xưa : KÝ ỨC THÁNG TƯ - Thanh Lam.


Thầy Huỳnh Anh, hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Du - Biên Hòa, đang phát thưởng cho học sinh. 

 KÝ ỨC THÁNG 4

Tháng 4 năm 1975, tình hình chiến sự ngày càng lan rộng. Trong bối cảnh này, trường Nam tiểu học cộng đồng Nguyễn Du tỉnh Biên Hoà phải tổ chức phát thưởng cuối năm sớm cho các em học sinh trước khi kết thúc năm học 1974-1975.

Hình chụp thầy hiệu trưởng trường tiểu học Nguyễn Du Huỳnh Anh phát thưởng khối lớp 1 trong ngày 24/4/1975 tại sân trường tiểu học Nguyễn Du tỉnh Biên Hoà.

Hôm nay 24/4/2025 đúng 50 năm..

Thầy hiệu trưởng Huỳnh Anh nay đã 92 tuổi hiện sống cùng các con tại Biên Hoà.

   Thầy Huỳnh Anh, 92 tuổi (2025)

THANH LAM. 

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2025

Thơ : MỘT TIẾNG EM - Đinh Hùng.

 



MỘT TIẾNG  EM


Từ giã hoàng hôn trong mắt em

Tôi đi tìm những phố không đèn

Gió mùa thu sớm bao dư vị

Của chút hương thầm kia mới quen.


Cùng bóng hàng cây gặp giữa đường

Ân cần tôi đến ngỏ tình thương

Bao nhiêu hoài bão, bao hy vọng

Nói hết cho lòng nhẹ mối vương.


Rồi đây, trên những lối đi này

Ta sẽ cùng ai tay nắm tay

Nhịp bước năm cung đàn ảo tưởng

Buông chìm tâm sự nửa đêm nay.


Từng bước trôi cùng trăng viễn khơi

Thâu đêm, chưa hiểu miệng ai cười

Nụ cười gửi tự thiên thu lại

Tiền kiếp nào xưa, em hé môi?


Dĩ vãng nào xanh như mắt em

Chao ôi, màu tóc rợn từng đêm

Hàng mi khuê các chìm sương phủ

Vời vợi ngàn sao nhạt dáng xiêm.


Kỷ niệm thơm từ năm ngón tay

Trăng lên từ nét gợn đôi mày

Bóng hoa huyễn ảo nghiêng vầng trán

Chưa ngát hương tình, hương đã bay.


Sông biển nào nghe thấu nỗi niềm

Sóng đâu cồn khoé mắt thâm nghiêm

Lòng ơi, hoài vọng bao giờ nói

Thăm thẳm trùng dương một tiếng "em"?


Nhẹ bước chiêm bao, tưởng lạc đường

Rưng rưng mùi phấn bỗng ngùi thương

Sương đầm vạt áo mong manh lệ

Sao rụng bay vào tóc dạ hương.


Tôi lánh trần ai đi rất xa

Bâng khuâng sao lạnh ánh trăng tà

Ngày mai hứa hẹn bừng hương cỏ

Tôi sẽ say nằm ngủ dưới hoa... 

ĐINH HÙNG. 

Bài học : ẾCH TRONG NỒI NƯỚC - Sưu tầm trên mạng.

 


ẾCH TRONG NỒI NƯỚC. 

Người ta vẫn hay kể về một câu chuyện quen thuộc: nếu bạn thả một con ếch vào nồi nước đang sôi sùng sục, nó sẽ lập tức bật người nhảy vọt ra ngoài để tự cứu mình. Trái lại, nếu bạn thả nó vào một nồi nước mát lành rồi từ từ đun nóng, nó sẽ nằm yên, chẳng hề hay biết nguy hiểm đang tới gần, cho đến khi bị luộc chín trong chính sự thờ ơ của mình.

Câu chuyện ấy, nghe qua tưởng như đơn giản. Người ta dùng nó để cảnh tỉnh về sự thờ ơ trước những thay đổi âm thầm nhưng nguy hiểm, về cách mà con người dễ dàng trượt dốc trong những cái bẫy ngọt ngào của thói quen và trì hoãn.

Nhưng sự thật thì sao?

Con ếch không hề ngu ngốc. Trái lại, cơ thể nó nhạy cảm với từng thay đổi nhỏ của môi trường. Khi nhiệt độ nước bắt đầu tăng lên, làn da ẩm ướt của nó lập tức cảm nhận được. Nó biết. Biết rất rõ.

Thế nhưng, thay vì nhảy ra, nó lại chọn ở lại. Bởi vì nó tin rằng mình vẫn chịu được. Nó vẫn nghĩ rằng cơ thể có thể thích nghi thêm một chút nữa thôi. Chút nữa thôi mà.

Cứ mỗi độ nước nóng thêm một chút, cơ thể nó lại phải điều tiết thêm một phần năng lượng. Ban đầu là điều chỉnh nhẹ nhàng, sau là dồn lực gồng lên chống lại cái nóng. Cứ như vậy, sức lực trong con ếch bị bào mòn dần, từng chút một. Và rồi, khi dòng năng lượng cuối cùng cạn kiệt, con ếch cuối cùng cũng quyết định nhảy. Nhưng khi ấy, đã quá muộn. Đôi chân không còn sức để bật lên, nó đành nằm đó, tuyệt vọng, bất lực, và chết trong chiếc nồi nước tưởng như vô hại.

Nó chết không phải vì nước quá nóng. Nó chết vì không nhận ra giới hạn thật sự của chính mình. Nó chết vì đã đánh đổi tất cả niềm tin vào một khả năng thích nghi không bền vững.

Còn chúng ta, những “chú ếch” đời thường liệu có khác?

Ta biết mình đang trì hoãn một bài học, chậm trễ một công việc, sa đà vào một thói quen xấu, chôn vùi thời gian trong những thú vui vô bổ. Ta biết rõ. Rõ đến từng chi tiết. Nhưng vẫn tự nhủ: "Mình còn kịp, vẫn còn ngày mai, chưa đến mức nghiêm trọng đâu."

Rồi một ngày, khi ta thật sự muốn thay đổi, quay đầu, bắt đầu lại… có khi ta cũng đã chẳng còn sức để nhảy nữa.

Đừng đợi đến lúc nước đã sôi.

Đừng để cái giá của một phút trì hoãn là toàn bộ cuộc đời.

Không phải lúc nào biết nguy hiểm là đủ, quan trọng là phải dám rời khỏi nó khi còn có thể


(st)

Suy ngẫm : NHÂN QUẢ - St trên FB.

 



NHÂN QUẢ. 

Một ông cụ già yếu chuyển tới sống với con tɾαi, con dâu và cháu tɾαi 4 tuổi. Tuổi già sức yếu, tαy ông cụ luôn luôn ɾun ɾẩy, mắt mờ ᵭục ᵭi, thậm chí ᵭi lại còn không vững. Bαn ᵭầu, tất cả mọi người ᵭều dùng Ьữα cùng nhαu tɾên Ьàn ăn. Tuy nhiên, với ᵭôi tαy lúc nào cũng ɾun Ьần Ьật và ᵭôi mắt ᵭã không còn nhìn ɾõ, việc ăn uống tɾở nên khó khăn hơn Ьαo giờ hết.

Thức ăn và ᵭồ uống vương vãi khắρ chỗ ngồi củα ông cụ. Điều này khiến cho con tɾαi và con dâu ông vô cùng Ьực mình.

“Chúng tα ρhải làm gì ᵭó với ông nội thôi. αnh không thể chịu ᵭựng пổi cách ăn uống ồn ào, Ьừα Ьộn và thức ăn vương vãi ᵭầy tɾên sàn như vậy nữα”, αnh con tɾαi nói với vợ.

Ngày hôm sαu, hαi vợ chồng αnh con tɾαi kê thêm một chiếc Ьàn nhỏ ở tɾong góc làm Ьàn ăn cho Ьố. Ông cụ ngồi ăn thui thủi một mình tɾong khi giα ᵭình con tɾαi vui vẻ ăn tối ngαy Ьên cạnh.

Sαu khi làm vỡ vài chiếc ᵭĩα, ᵭĩα ᵭựng thức ăn củα ông cụ ᵭược ᵭựng vào một chiếc Ьát gỗ. Thỉnh thoảng nhìn sαng ρhíα chiếc Ьàn nhỏ, mọi người ᵭều nhận thấy những giọt nước mắt chầm chậm lăn tɾên má ông cụ.

Thế nhưng, những gì mà hαi vợ chồng người con tɾαi thốt ɾα chỉ là những lời chì chiết gαi góc Ьất cứ khi nào ông cụ làm ɾơi ᴅαo nĩα hαy làm ᵭổ thức ăn. Tɾong suốt thời giαn ᵭó, cậu con tɾαi 4 tuổi ᵭã lặng im quαn sáϯ tất cả.

Một hôm tɾước Ьữα ăn tối, ông Ьố nhìn thấy con tɾαi nhỏ ᵭαng chơi gì ᵭó với miếng gỗ thừα tɾên sàn nhà liền nhẹ nhàng hỏi xem cậu Ьé ᵭαng làm gì.

Bằng một giọng nói ᵭáng yêu, ngây thơ hết sức cậu con tɾαi cười và nói: “Con ᵭαng làm một cái Ьát gỗ nhỏ cho Ьα mẹ ăn khi Ьα mẹ già ᵭi ᵭó”. Tɾả lời xong cậu Ьé quαy tɾở lại chăm chú với tɾò chơi còn dαng dở.

Cậu Ьé lặng lẽ quαn sáϯ cách Ьố mẹ cư xử với ông nên ᵭã quyết ᵭịnh làm tɾước một chiếc Ьát gỗ ᵭể ρhục vụ Ьố mẹ lúc về già.

Nghe những lời như kim ᵭâм vào ϯiм ᵭó, vợ chồng αnh con tɾαi chẳng thể nói gì. Nước mắt Ьắт ᵭầu chảy dài tɾên má cả hαi người. Mặc dù không αi nói với αi câu gì nhưng cả hαi vợ chồng ᵭều Ьiết họ sẽ ρhải làm gì.

Tɾong Ьữα tối hôm ᵭó, αnh con tɾαi ᵭã nắm lấy Ьàn tαy ɾun ɾẩy củα Ьố mình, nhẹ nhàng dắt ông tɾở lại Ьàn ăn ngồi cùng với cả giα ᵭình.

Từ ᵭó cho tới những ngày cuối cùng củα cuộc ᵭời, ông cụ vẫn luôn ăn tối cùng giα ᵭình còn con tɾαi và con dâu cũng chẳng αi ᵭể ý tới chiếc ᵭĩα Ьị ɾơi, vết sữα ᵭổ hαy khăn tɾải Ьàn Ьị ố nữα.

“Gieo nhân nào thì gặt quả nấy”, ở hiền gặρ hiền, ở áċ gặρ áċ. Dù mối quąn hệ giữα chα mẹ con cái không tốt nhưng ᵭến khi chα mẹ ɾời khỏi cõi ᵭời này, Ьạn sẽ hiểu họ có ý nghĩα như thế nào tɾong cuộc ᵭời mình.

Con cái cũng sẽ nhìn vào cách cư xử củα Ьố mẹ với ông Ьà mà học tậρ. Hαy nói cách khác, Ьạn ᵭối xử với Ьố mẹ mình thế nào thì sαu này con cái Ьạn cũng sẽ ᵭối xử với Ьạn ᵭúng như thế. Đó chính là luật nhân quả ở ᵭời.

Chuyện đã qua : SAU NGÀY TÀN CUỘC - Kiem Mai Ba (fb)

 



SAU NGÀY TÀN CUỘC.


Ngày 2/5/1975, UBND Cách mạng xã Phú Xuân gọi tất cả binh lính chế độ cũ mang theo “căn cước quân nhân”, “chứng chỉ tại ngũ”… đến xã trình diện. Mọi người điền vào tờ khai nộp và xếp hàng chờ đến lượt bà Sáu Nhung (chủ tịch xã, trên 30 tuổi, mặc bà ba đen, quấn khăn rằn, mang AK) phỏng vấn vừa đập bàn: “Anh bắn chết bao nhiêu cán bộ cách mạng?” – “Nói láo, đi lính 3 năm mà không bắn chết chiến sĩ giải phóng nào? Phải thành khẩn khai báo mới được hưởng khoan hồng của cách mạng”…


Là du kích Bến Tre, bà Sáu Nhung căm thù lính Sư đoàn 7 và lính Tiểu khu Kiến Hòa, bà hỏi “Mày ở Trung đoàn 10, mà ở tiểu đoàn 3/10 hay 4/10?” – “Mày ở Trung đoàn 11 có biết 2 thằng tiểu đoàn trưởng 2/11 và 3/11 ác ôn đang trốn ở đâu không?” – “Mày có tham gia trận càn ngày 22/6/1970 không?”. Đối với lính địa phương quân thì bà đọc tên những đồn trưởng khát máu, ác ôn. Bà “quay” lính Sư đoàn 7 và lính Tiểu khu “lên bờ xuống ruộng” cả 15 phút/người, cho đến khi mồ hôi trán đổ ướt mặt mới thôi.


Có lẽ, bà chưa đụng trận với Lực lượng trù bị rằn ri, như Thủy quân Lục chiến, Nhảy dù, nên bà không đưa họ vào “diện phỏng vấn đặc biệt”. Nhưng đến lượt tôi, tuy “chưa kịp gây nợ máu”, nhưng bà thắc mắc về cấp bậc của tôi ghi là “sinh viên sĩ quan”: “chỉ có chuẩn úy, thiếu úy, làm gì có cấp bậc SVSQ?” Tôi trình bà căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ, sự vụ lệnh cử tôi đi Mỹ, tất cả đều ghi “SVSQ M.B.K”. Bà hỏi “nếu tốt nghiệp anh mang lon gì?”, tôi nói “thiếu úy” - "vậy anh ghi “thiếu úy”. Tôi trình bày “Tôi về nước ngày 13/3/1975, tuy có bằng phi công, nhưng tôi phải học thêm khóa “Điều chỉnh sĩ quan”. Ngày 28/3/1975 lẽ ra tôi ra Nha trang học điều chỉnh, thì Đà nẵng thất thủ, nên ở lại Tân Sơn nhứt thuộc “Đơn vị thặng số”. Bà Sáu tịch thu giấy tờ của tôi rồi ký lên “Giấy đăng ký học tập cải tạo”.


Những ngày sau đó, cứ 5 giờ sáng, ông Hai Ngóc tổ trưởng đi khắp xóm gọi “ngụy quân, ngụy quyền” tập họp ở văn phòng ấp đi làm thủy lợi. Má tôi nấu cơm, tôi bỏ cơm và khô cá vào lon Guigoz để ăn trưa. Ông Hai Ngóc có con đi lính VNCH, thằng Giáp đi lính VNCH xung phong làm tổ phó cũng gọi tôi “lính ngụy”. Thằng Sủng chưa đi lính - con Sáu tiệm vàng chuyên buôn đô la đỏ, làm bí thư đoàn ấp canh me tôi sát nút, sau đó nó vượt biên sang Mỹ! Ông Bảy Sang, ông Năm Dần, ông Tư Kiệt, có đi Việt Minh rồi về thành, đến 30/4/1975 nhảy ra đeo băng đỏ làm trưởng ấp. Ông Ba Xuân thợ giặt ủi, xưng là người chỉ điểm pháo kích tổng kho xăng dầu Nhà Bè, làm phó công an xã, miệng hét ra lửa! Nhớ lại, muốn thành “sĩ quan đề lô” (Détachement liaison de Observation) của VNCH phải tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức, rồi đến Dục Mỹ học pháo binh 6 tháng, mới đi tiền tiêu điều chỉnh tác xạ. Ông Ba Xuân thợ giặt ủi làm đề lô, nên pháo bay khỏi Tổng kho xăng dầu hơn 1 cây số, rớt trúng nhà ông Tư Tẩu làm chết 4 người !


Ông Bảy Sang trưởng ấp 5, đạo Cao Đài, bận bà ba trắng mang K.54, ông Tư Kiệt người lùn mặc pijama đen, mang CKC dài chấm đất. Tôi không sợ người mặc quân phục mang súng, vì họ có quân kỷ, còn bà ba và pijama mang súng, không biết họ nổ lúc nào? Khi họ nhắm bắn ăn cướp thì chắc chắn trúng người la làng. Trước đó, ông Bảy Sang chạy xe lam, ông Tư Kiệt sửa xe đạp là người có tuổi, sống tử tế. Nhưng bất ngờ nhất là bác Năm Dần, bác quản lý đám “ngụy quyền” đắp thủy lợi, đứng trên bờ đê chửi những bạn lười, câu giờ: “Bọn mũi nhọn, lông tay bị đánh chạy về nước hết, tụi bây là tay sai, không còn bơ thừa sữa cặn mà liếm đâu, ở đó mà làm biếng nhớt thây, “ngụy quân” phải tự giác lao động, học tập cải tạo để được cách mạng khoan hồng!


Bên thắng cuộc liên tục chửi “ngụy quân, tay sai, liếm gót” trên loa, trên đài chưa hết nhục, đàng này bác là dân Phú Xuân mấy đời như ba tôi, sao bác chửi con cháu thậm từ như ở miền ngoài vậy? Hôm đó, bác 5 Dần phân công nhóm 10 “ngụy quân” tôi, một người dùng len xắn đất, chuyền tay lên đắp tại mặt bọng. Đất ruộng nơi có bọng thì trũng và nhão, nên cục đất khi tới bờ rã ra còn phân nửa, đến 11g trưa vẫn chưa đầy. Cứ mỗi lần bác đi kiểm tra ở các dây khác là có người trong dây của tôi trốn, đến 11g30 còn 3 người. Tôi xin bác cho ăn cơm trưa và cho thêm người để chiều đắp. Bác nói tụi bây không biết tự quản lý, để 7 thằng bỏ trốn, 3 thằng còn lại phải đắp cho đầy, chiều mà không đầy, 3 thằng nằm xuống để tao đắp đất, lấy thân tụi bây độn như cây ráng.


Tôi nói “Bác không có quyền coi tui tôi như thú, tôi về đây, bác muốn làm gì thì làm”. Ngày hôm sau, ông Hai Ngọc phó ban an ninh ấp gọi tôi lên xử lý. Tại văn phòng ấp, không thấy 5 Dần, tôi xin ông Hai Ngọc mời 5 Dần và 2 người còn lại để đối chứng. Ông Hai Ngọc nói “Không cần, chú bị Mỹ nhồi sọ, bây giờ muốn chống chánh quyền cách mạng hả?”. Tôi nói, tôi không hề có hành động hay lời nói xúc phạm tới chính quyền cách mạng, rồi tôi kể hết đầu đuôi câu chuyện, ông Hai Ngọc có vẻ hiểu, bắt tôi viết kiểm điểm, rồi cho về. Ba tháng sau ngày 30/4, hệ thống thủy lợi ấp 5 và ấp 6 được đắp bằng đất chèn lá dừa nước đã sạt lở. Chúng tôi gia cố cừ tràm, đắp thêm. Nhưng sau vụ lúa mùa (6 tháng), hệ thống thủy hại không giữ được nước cấy vụ đông xuân. Từ đó, xã Phú xuân trở về một vụ như thời chưa được giải phóng.


TÔI SUÝT BỊ XỬ TỬ:


Rạng sáng 17/6/1975, một giọng Bắc gọi “mở cửa” kèm theo tiếng báng súng dộng vào cửa trước. Tôi và ba tôi ngủ trên bộ ván nhà trên, bật dậy mở cửa, bật đèn. Một anh bộ đội bước vào chĩa súng vào bụng tôi, kéo cơ bẩm lên đạn và bảo “đứng im”. Thiếu úy Nguyễn Văn Thiệu - đại đội trưởng thuộc E.88 (quân quản ấp 4, 5, 6) buớc vào nhà cùng 3 bộ đội khác, nói “Hôm qua là ngày cuối cùng cho sĩ quan ngụy cấp úy trình diện đi cải tạo, chúng tôi đến đây để cưỡng chế đối tượng MBK đi học tập”. Sợ quá - hóa liều, tôi đưa hai tay lên trời, ưỡn bụng ra và nói “Nếu các anh có bằng chứng tôi là thiếu úy, các anh cứ bắn tôi. Các anh qua bà Sáu Nhung xem các giấy tờ tôi nộp có ghi cấp bậc thiếu úy không? Giấy tờ đó đều ghi tôi là SVSQ. Ở Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức, SVSQ tốt nghiệp mang lon chuẩn úy, mà chuẩn úy không đi học tập trung, tôi còn thấp hơn chuẩn úy nên không đi tập trung là đúng”


Thiếu úy Thiệu nói “Nhân dân tố cáo anh là thiếu úy, học bên Mỹ về”. Tôi nói, các anh và bà Sáu Nhung là cán bộ cách mạng, ở cách nhau chưa đầy một cây số sao không gặp để xem giấy tờ của tôi nộp, hoặc mấy anh liên lạc với đơn vị quân quản căn cứ Tân Sơn Nhất xem tàng thư tôi có phải thiếu úy không? Thiếu úy Thiệu nói “nhân dân tố không bao giờ sai”! Tôi bỗng nhớ còn giữ thẻ lãnh lương. Thẻ màu vàng có hình tôi, có chữ ký tôi lãnh lương tháng 3 và tháng 4 là 17.800 đồng/tháng. Tôi nhờ ba tôi lấy bóp của tôi móc ra thẻ lương, tôi cắt nghĩa “17.800 đồng là lương trung sĩ, chứ không phải lương thiếu úy”! Ba má tôi hiểu thế nào là chứng cứ, cùng lên tiếng kêu oan cho tôi. Ba tôi nói “nếu nó là thiếu úy ông bắn luôn tôi đi”. Thấy không ổn, thiếu úy Thiệu ra hiệu, anh bộ đội rút mũi súng ra khỏi bụng tôi, lui về cạnh cửa. Chị Hai và ba em gái tôi khóc, thiếu úy Thiệu nói “Tôi đưa anh K về văn phòng đại đội để điều tra, không ai được đi theo, nếu anh K không phải sĩ quan, tôi sẽ trả về chính quyền địa phương quản lý”.


Văn phòng đại đội là nhà mượn của ông Sáu Tiệm, cách nhà tôi 400 mét, lúc đó trời sáng, hàng xóm tò mò xem tôi bị bắt. Tại nhà chú Sáu Tiệm, tôi yêu cầu thiếu úy Thiệu liên lạc với bà Sáu Nhung, nhưng anh ta lờ đi và nói “Anh học ở Mỹ, chúng nó nhồi sọ anh chủ nghĩa đế quốc, để chống phá chủ nghĩa Mác Lê, anh nên tình nguyện đi cải tạo để trở thành công dân tốt”. Biết đây là bước nhượng bộ, tôi nói “Tôi là con trai một với 4 chị em gái, nên không di tản dù đang ở sân bay Tân Sơn Nhất, tôi không phải diện đi cải tạo tập trung, các anh hãy để tôi về để lo cho cha mẹ. Thiếu úy Thiệu đưa tôi 2 tờ giấy ca rô và bắt tôi viết tường trình. Khoảng 9 giờ, thiếu úy Thiệu cho tôi đi bộ về nhà. Từ đó, chòm xóm không ai nói chuyện với tôi, buồn nhất người anh chú bác ruột cũng lánh mặt tôi 3 tháng.


Nhà tôi có cửa ngõ và rào ba mặt, mặt sau giáp con rạch không có rào. Khi bộ đội chĩa súng vô bụng tôi ở nhà trên, em gái út 15 tuổi sợ quá, mở cửa trốn ra sau, bỗng thấy 2 bộ đội cầm súng, nghĩa là họ lội từ rạch lên, bao vây chu đáo! Từ đó, mỗi đêm nghe chó sủa là tim tôi muốn rớt ra ngoài. Sau khi hết đi thủy lợi, tôi xin làm thư ký cho “Công đoàn xe lam” (Sau là HTX xe lam), tôi đánh máy giỏi, viết báo cáo hay (cho phòng giao thông) nên bác Nhu chủ tịch Công đoàn quý tôi. Làm được 4 tháng, ông Hai Ngọc phó ban an ninh Ấp thấy tôi ngồi đánh máy, bèn gọi bác Nhu ra nói “Thằng này học Mỹ về, anh cho nó làm, nó coi hết tài liệu của ta”. Thế là mất việc, tôi đành xin làm “công nhật” ở NM luyện cán thép Việt Thành, dùng búa tạ đập sắt gù mới ra lò. Một tổ 4 thằng, đập 4 vỉ (40 phôi sắt) ăn 44 xu. Mỗi tổ phải đập 16 vỉ, để mỗi thằng lãnh 44 xu/ngày. Một bạn trong tổ tôi bị phôi sắt đè gãy chân, tôi không bị thương nhưng chân tay bị phỏng, sau một năm rưỡi đập sắt gù, tôi làm cháy hai đôi giày bottes de saut (của trường Bộ binh TĐ và trường bay Sheppard), bù lại tôi biết đứng trên giàn cao 3 mét, quay búa 7 kg cả chục vòng không mỏi.


TÔI ĐƯA EM SANG SÔNG.


Tôi cù lần, nhát gái, 21 tuổi vào trường Bộ binh Thủ đức chưa có mảnh tình lận lưng. Mỗi chủ nhật, ra vườn tao ngộ thấy bạn gái đi thăm bạn đồng khóa mà mơ. Tháng 12/1972, sang Không quân, tôi quen được một hoa khôi trường Trung học Cần Giuộc, nhờ người quen hai bên làm mai. Da nàng trắng, mũi cao, môi son, tóc dài, chữ viết bay bướm với nét đá, nét bụng. Tháng 6/1973 tôi học Anh ngữ tại Gò vấp, nàng học Trường QG Sư phạm Sài gòn thỉnh thoảng nghỉ trưa tôi xách xe máy ra trường nàng ngồi ghế đá tâm sự, khiến nhiều bạn (nam lẫn nữ) ghen tỵ. Chúng tôi có đến nhà nhau ra mắt ba má. Nàng đi coi bói kể lại tôi “Anh Tân Mẹo, cầm tinh con mèo, xuất tướng tinh con rái cá, cân nặng “1 cây hai”, mạng tòng bá mộc. Em Nhâm Thìn, cầm tinh con rồng…mạng trường lưu thủy. Thầy nói, nước sông dài nuôi cây cao, bóng cả là rất hạp nhau”. Tháng 10/1973, tôi thi đủ điểm đi Mỹ, nàng may 2 áo dài tím, hứa sẽ mặc đi dạy sau khi tốt nghiệp tháng 6/1974.


Tôi ở Mỹ 16 tháng, thư từ VN qua Mỹ và ngược lại mất 2 tuần, tôi đã gửi 15 lá thư và nhận 15 lá. Mỗi lá tôi kèm 5-6 tấm hình màu, mỗi lá nàng kèm một chân dung trắng đen chụp ở ảnh viện, tấm nào cũng đẹp như nghệ sĩ. Năm 1974, nàng lên Lai Khê (gần căn cứ Sư đoàn 5 bộ binh) dạy tiểu học. Khi tôi về nước, nàng về 2 lần vào ngày chủ nhật trong tháng 3/1975 để gặp tôi ở nhà bạn học ở Q.8. Sau đó, tình hình chiến sự leo thang, quốc lộ 13 không an toàn, tôi không gặp nàng nữa. Sau 30/4, tôi bị quản chế tại chỗ, không thấy nàng về thăm. Khoảng tháng 9/75, nàng hẹn gặp tôi ở nhà bạn nói rằng, việc dạy học ở Lai Khê quá vất vả, thiếu điện, thiếu dầu, thiếu gạo nàng sống không nổi. Ty Giáo dục chỉ cho cô nào có chồng được về Sài gòn. Má nàng biết vậy ép nàng lấy anh B. kỹ sư công chánh, đang làm phó giám đốc một xí nghiệp (Má nàng và má KS. B là bạn thân).


Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói “Hiện tại của anh mất, tương lai anh không có, còn dĩ vãng của anh bị sỉ nhục, nguyền rủa mỗi ngày. Mạng anh là cây tòng bá giờ thành “tà bóng”, không thể che cho em! Anh chúc em hạnh phúc”! Một hồi sau, nàng nói “Em lấy chồng, rồi sẽ có ngày anh lấy vợ. Thư và hình ảnh tặng cho nhau có thể làm cho tụi mình mất hạnh phúc”. Tôi nói “Em đúng, anh sẽ trả cho em tất cả thơ, hình”. Nhớ ngày 27/1/1973, Mỹ và Bắc Việt trao trả tù binh cho nhau tại sông Bến Hải và Lộc Ninh. Hơn hai năm sau, tôi và nàng “trao trả thư từ” tại Q.8. Chủ nhật tuần sau đó, nàng đưa tôi xấp thư gói trong giấy báo. Tôi đưa lại nàng xấp thư, nàng giở ra kiểm tra từng tấm ảnh. Tôi không kiểm tra thư. Đám cưới nàng không mời tôi, như lời tôi dặn lúc chia tay. Nàng sinh đứa con trai đầu lòng năm 1976, nên được về Sài gòn vì lý do con mọn. Tôi đàn guitar hay, nhưng ca rất dở, vậy mà cứ khoái hát bài “Tôi đưa em sang sông” của Y Vũ – Nhật Ngân.


Năm 1979, Trung đoàn E.88 sang Campuchia đánh Ponpot, thiếu úy Thiệu hy sinh, tôi buồn và cầu cho anh siêu thoát. Nếu anh bộ đội chĩa súng vô bụng tôi đọc được bài này, xin vui lòng liên lạc, tôi sẽ đãi anh nhậu với rượu XO. Bởi vì, anh đã không lỡ tay cướp cò, hoặc là trong băng đạn không có đạn. Dù giả thiết nào tôi đều biết ơn!

KIEM MAI BA ( FB )

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2025

Chữ nghĩa : "BÔNG" "HUÊ" "HOA" - Nguyễn Chương - Mt (fb)

 



"BÔNG", "HUÊ", "HOA"

 Về miền Tây mà nghe câu "Chờ anh, em hết sức chờ. Chờ cho ến xại lên bờ khui huê" (*), nghe ngồ ngộ hết biết. 

Coi, "ến xại" là gì? Đây là tiếng Tiều (Triều Châu), họ đọc như rứa cho hai chữ 蕹 菜 (âm Hán-Việt "ủng thái"), nghĩa là rau muống!

Còn "khui huê", cũng tiếng Tiều, viết 開 花 (âm Hán-Việt "khai hoa"), nghĩa là trổ bông!


/1/ "BÔNG" không phải là "phương ngữ" miền châu thổ Cửu Long đâu, mà cách gọi này thuộc Nam âm (quốc âm), là tiếng thuần Việt của chúng ta! 


Thi hào Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều: "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm BÔNG". 

Trong tiếng Mường, còn goi là "proto Vietic" (tiếng Việt nguyên thủy), gọi "Pông". 

Xứ Thanh, xứ Nghệ - xin chú ý- cũng gọi "Bông". 

Nhiều tỉnh miền duyên hải vẫn giữ cách gọi "Bông". 

Miền châu thổ Đồng Nai - Cửu Long, bà con gọi "Bông", dễ mến gì đâu! 


Vì là Nam âm (quốc âm) nên ghi bằng chữ Nôm 葻, đọc là "BÔNG". 


* Cùng nghĩa với BÔNG, trong chữ Hán ghi là 花  - "hoa" (âm Hán-Việt), "huê" (tiếng Tiều), "huā" (tiếng Hán Bắc Kinh). 


/2/ Đừng giở trò chụp mũ, nói BÔNG là "phương ngữ" hạn chế trong vùng miền. Ngược lại, đây là cách nói của tiếng Việt trải dài phần lớn theo chiều dài đất nước... 


Còn, "rau muống biển"? Ta nói, "rau", "muống", "biển" đều là tiếng thuần Việt, có tìm đỏ con mắt cũng không thấy cách đọc này trong chữ Hán. Mà đều ghi bằng chữ Nôm: 蔞 rau, 𡗐 muống, 㴜 biển. 


Đọc thấy trên báo Tuổi Trẻ (là "báo nhà" của tôi khi chưa nghỉ hưu), bỗng dưng ghi ... "hoa rau muống biển". Sao không ghi là "BÔNG RAU MUỐNG BIỂN", bởi hết thảy bốn chữ này đều thuần Việt, nhịp nhàng với nhau, rất hay! Mắc gì nhét cách đọc theo chữ Hán (âm Hán-Việt) "hoa" vô đây?


Kiểu này hệt như ở miền Tây, bà con nói "bông ô môi" thì bỗng dưng xuất hiện những kẻ gọi ..."hoa ô môi"! Nghe "hoa ô môi", biết ngay họ là "kinh hóa", tức chỉ biết dựa theo chữ Hán ("hoa") mà lạc mất ký ức "BÔNG" trong tiếng Việt (Yiệt)! 


/3/ Cũng còn may là họ hóa ... kinh, mới một phần, vẫn còn biết gọi "RAU MUỐNG".


Bởi nếu hóa người ... kinh toàn phần, tức chỉ biết dựa theo chữ Hán (kéo theo âm Hán-Việt) làm "chuẩn" => ắt họ phải nói "ủng thái hoa" (蕹 菜 花), dẹp bỏ tiếng thuần Việt "BÔNG RAU MUỐNG"! 


* Mời đọc tiếp bài: NHỜ NAM ÂM, ÂM HÁN-VIỆT THOÁT KHỎI CHÔNG CHÊNH 

https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/pfbid0K6poRgXG3gYiQkbki2gXUtgKgUD2iim4HJVU8yhvDaGN2HpiZkATKjUs8qzTc4mAl


--------------------------------------------

(*) Dị bản: "Chờ anh, em hết sức chờ. Chờ cho rau muống lên bờ khai huê", đây là người Việt (Yiệt) không dùng tiếng Tiều "ến xại", "khui" mà dịch ra luôn. 

Tuy nhiên, vẫn còn dùng "huê". Chú ý: tiếng Việt gọi "BÔNG"; còn "huê" - cũng như "chệc" (chú), "chế" (chị), "hia" (anh) - trong tiếng Tiều, người ở miền Tây vẫn có lối dùng chung, giao thoa như vậy.

NGUYỄN CHƯƠNG -  MT (FB) 

Bên ngoài : CẦN HỌC CÁI HAY - Dương Đình Tường.

 



Trong lúc nhiều giáo sư, tiến sĩ loay hoay với i ngắn y dài, với bỏ hay không bỏ khẩu hiệu Tiên học lễ, hậu học văn thì...

NGƯỜI NÔNG DÂN TỰ TIN UỐNG THUỐC TRỪ SÂU TỰ CHẾ, VẶT RAU ĂN NGAY GIỮA CÁNH ĐỒNG 

Khi mà bóng đen về an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn còn bao trùm khắp chốn thì có một cặp vợ chồng nông dân tự tin uống thuốc trừ sâu tự chế, vặt rau ăn ngay giữa cánh đồng. 

Đó là anh Nguyễn Đăng Quý-chị Đặng Thị Cuối ở  xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng, TP Hà Nội. Thành phần thuốc sâu tự chế của họ gồm sữa chua, sữa tươi, đường, men vi sinh và không thể thiếu là chính những con sâu màu xanh to như đầu đũa bắt ngay tại ruộng. 


Chị Cuối bảo với tôi rằng: “Khi tôi nói ra kỹ thuật này nhiều thạc sĩ, tiến sĩ nông nghiệp hay vi sinh của ta họ cười cho thối mũi nhưng đó là kỹ thuật tôi học được khi còn làm thuê 4 năm trong một công ty rau của Nhật tại Đài Loan”.  

Một ngày ở đó vợ chồng chị trung bình lao động 12-13 tiếng, 2 h sáng thức dậy ăn điểm tâm rồi ra đồng nhổ rau đến 6 h sáng ăn tiếp rồi rửa rau đến 11h30 mới nghỉ, ngủ đến 2 h chiều và làm đến 6 h tối. Nhiều khi lắm đơn đặt hàng họ còn phải làm đến 7-8 h tối là chuyện thường nên trung bình mỗi ngày chỉ được ngủ khoảng 5-6 h. 


Người làm thuê ở xứ Đài Loan đã chăm chỉ nhưng ông chủ của họ còn chăm chỉ hơn thế rất nhiều. Họ dậy từ 1 h sáng và chỉ chịu lên giường sau 9h tối, trung bình mỗi ngày ngủ khoảng 4-5h. Ngày Tết, ngày lễ, người làm thuê được nghỉ để đi chơi nhưng chủ trại thì không. 

Sau nhiều năm bôn ba xứ người, anh chị về thuê đất lập một trang trại trồng rau an toàn, rộng 5 ha trong đó 3 ha ngoài trời, 2 ha nhà màng. Họ trồng cải trắng Nhật, cải mơ Nhật, súp lơ tí hon Nhật, cải thìa Mỹ, su hào ăn lá Đài Loan với những điều kiện nước sạch, không khí sạch, đất trồng cũng sạch. 


Họ hoàn toàn không dùng phân hóa học, thuốc trừ sâu. Thửa ruộng nào bị sâu thì bắt, có thời điểm sâu nhiều quá bắt không xuể nên chị mới nghĩ đến cách bài trừ sâu của người Nhật bằng ngâm những con sâu trong một dung dịch gồm đường, sữa chua, men vi sinh và sâu để chế thuốc. Thuốc này khi phun lên lá không làm cho sâu chết được nhưng sẽ đau bụng, ngừng ăn rau, nằm im đợi ngày hóa kén. Trong một lần đang phun thuốc như thế, chị bỗng thấy một người đàn ông dừng lại ở ven đường, rút điện thoại ra chuẩn bị quay. 


Nhanh như chớp, chị chạy tới túm ngay cái điện thoại và hỏi: “Anh đang làm gì thế?”. “Tôi quay cảnh cô phun thuốc sâu”. Người đàn ông đáp. Thấy vậy chị liền nói: “Anh có biết tôi phun thứ gì lên rau không? Nó không phải là thuốc sâu thông thường độc hại đâu nhé, không tin hả, tôi uống luôn cho anh xem”. 


Vậy là chị chắt bình thuốc sâu ra, uống ngon lành trước con mắt ngạc nhiên tột độ của người đàn ông xa lạ. Hỏi ra thì anh ta thú nhận cũng đang trồng rau sạch nhưng bị rau sạch của chị cạnh tranh mạnh mẽ quá nên khi thấy cảnh phun thuốc định quay lại để cho lên mạng. Và chị cũng hoàn toàn tự tin uống thuốc sâu tự chế trước mặt tôi như vậy. Chẳng thế mà sản phẩm của chị được nhiều trường học, công ty, cửa hàng, siêu thị tìm đến để đặt mua./.

DƯƠNG ĐÌNH TƯỜNG

PS: Chị không có thói quen uống thuốc sâu tự chế hay khuyến khích việc này mà chỉ là để chứng minh nó an toàn mà thôi!

Vui cười : NÓI THIỆT CŨNG HAY ! - TVN st.

 


NÓI THIỆT CŨNG HAY


🎭 Khuya, chồng nằm với vợ cứ ngáp hoài. 

Vợ bỗng bảo:

- Ông lại muốn hút thuốc chứ gì? 

Ra ngoài kia mua thuốc mà hút đi. 

Chồng dậy mặc quần áo, bước ra phố.

Chỗ nào cũng đóng cửa, trừ mỗi quán bar. 

Anh chàng ghé vào, gọi một ly. 

Có một ẻm ngồi ở đó, anh ta liền gọi cho ẻm một ly. 

Tán chuyện một lúc, chàng gạ đưa ẻm về nhà. 

Ẻm đồng ý, khi về đến nhà liền mời anh chàng một ly cà phê. 

Chàng đồng ý liền. 

Rồi hai đứa làm chuyện ấy. 

6 giờ sáng chồng thức giấc, nghĩ ngay: 

"Vợ mình chỉ bảo mình đi mua thuốc lá thôi chứ nhỉ, làm sao giờ?".

Bèn hỏi ẻm:

- Nhà em có viên phấn nào không?

- Có.

- Đưa anh viên, ngay và luôn. 

Ẻm đưa viên phấn. 

Gã chồng lấy phấn bôi đầy tay rồi về nhà. Vợ cáu kỉnh hỏi:

- Ông đi chết ở đâu mà giờ này mới mò về?

- Em biết không, anh ra phố, chỗ nào cũng đóng cửa. Anh thấy quán bar mở cửa, vào đó thấy có một em. 

Anh mới mời nó uống, uống xong anh đòi đưa nó về nhà. 

Về nhà nó mời anh uống cà phê, anh đồng ý luôn. 

Sau đó bọn anh q.uất nhau. 

6 giờ sáng anh mới thức giấc và nghĩ: 

"Vợ bảo mình đi mua thuốc lá cơ mà, làm sao bây giờ?".

Vợ nghiêm mặt nói:

- Đưa tay đây tôi xem.

Chồng liền đưa tay ra, khuôn mặt đầy vẻ có lỗi.

Vợ liền kêu lên:

- Nói dối không biết ngượng miệng à? 

Ông lại đi chọc bi-a với bọn bạn thâu đêm suốt sáng đấy hả?! 

- !?!?. 

Kể ra nói thiệt cũng tốt chớ anh em❓


_____

TVN  Sưu tầm.

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2025

Tản mạn : THƯƠNG CÂU "NHẠC SẾN"... - Nam Phan.

 


THƯƠNG CÂU "NHẠC SẾN"...

Trên xứ người, mình còn giữ thói quen nghe nhạc khi có thời gian rảnh. Mình vẫn nghe một số bài tình ca lãng mạn được người ta xem là “Nhạc sang”, kiểu như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Buồn tàn thu”, “Lá đổ muôn chiều”,  “Tình ca”, “Hạ trắng”, “Diễm xưa”. Tuy nhiên, mình chưa bao giờ che dấu chuyện mình cũng thích nghe bolero, vốn bị thiên hạ gán ghép là “Nhạc bình dân” hay “Nhạc sến” với ý niệm coi thường. Mình bắt đầu nghe bolero từ nhỏ, cũng không nhớ rõ là từ lúc nào nữa. Ba mình ngày xưa hâm mộ tiếng hát liêu trai của cô Thanh Thúy, nên đã lấy tên cô để đặt cho một người chị của mình. Saigon thay tên, nhạc bolero vàng son một thuở chỉ còn trong hoài niệm của những người muôn năm cũ, nhưng mình vẫn thường xuyên nghe ba mình nghêu ngao những câu bolero mỗi khi đêm về.

Lên Saigon học đại học, đúng ngay thời nhạc trẻ hải ngoại làm mưa làm gió, bạn bè cùng trang lứa với mình đắm mình trong dòng nhạc trẻ đó. Mình thường nghe bạn bè mình hát “Trái tim mùa đông”, “Người tình mùa đông”, “Mưa trên biển vắng” cũng như nhiều bài nhạc trẻ hải ngoại thời thượng khác. Có những người bạn ngày xưa thích nghe bolero, cũng đã bỏ bolero để chuyển sang nghe nhạc trẻ. Thời đó, các quán café thường mở nhạc trẻ hải ngoại, còn không thì mở nhạc Tuấn Ngọc, bởi vậy mỗi lần có dịp đi café với bạn bè, mình cũng hiếm khi được nghe bolero. Giữa Saigon hoa lệ, có những đêm đạp xe đi dạy kèm về khuya, vừa đói vừa mệt, qua phố vắng, bất chợt nghe văng vẳng tiếng nhạc bolero xen lẫn tiếng chửi thề vọng lại, mình dừng xe để nghe cho hết bài, và quên luôn cả cái đói và mệt.

Tốt nghiệp đại học, lên đường đi tầm sư học đạo ở xứ sở sương mù, trong mớ hành trang mang theo, có những đĩa CD MP3 nhạc tình ca và nhạc bolero. Thời đó internet chưa phát triển như sau này, gọi điện thoại vừa khó vừa đắt tiền, liên lạc với nhau chỉ bằng yahoo, chưa có youtube, chưa có facebook, chưa có zalo, chưa có viber, bởi vậy máy bay vừa cất cánh là xem như nghìn trùng xa cách. Những ngày đầu tiên trên xứ người, nghe cô Khánh Ly hát “Saigon niềm nhớ không tên” được một đoạn thì phải tắt, không dám nghe trọn bài hát. Mùa xuân đầu tiên trên xứ người, nghe cô Hương Lan hát “Đón xuân này nhớ xuân xưa” được một đoạn cũng phải tắt, vẫn không dám nghe hết bài. Thời gian dần trôi, mọi nỗi nhớ đều dần dần nguôi ngoai, những lúc mệt mỏi hay căng thẳng quá, mình lại tìm đến âm nhạc.

Khoảng chục năm trở lại đây, nhạc bolero trở lại, đường hoàng xuất hiện trên truyền hình, kể cả đài truyền hình quốc gia. Ngày xưa, có lẽ người ta cũng không ngờ có một ngày, những giọng ca bolero thành danh từ lúc Saigon chưa thay tên như “Nhạn trắng Gò Công” Phương Dung hay “Nữ hoàng sầu muộn” Giao Linh lại được xuất hiện trên đài truyền hình quốc gia. Youtube xuất hiện, phần lớn các bài hát bolero xưa không còn bị kiểm duyệt khắt khe như ngày trước, nên gần như người người hát bolero nhà nhà hát bolero. Có những ca sỹ thành danh với nhạc trẻ cũng thỉnh thoảng hát bolero, có những ca sỹ thành danh với nhạc đỏ cũng thỉnh thoảng hát bolero, có những nghệ sỹ cải lương cũng thỉnh thoảng hát bolero. Số lượng ca sỹ trẻ hát nhạc bolero xuất hiện rất nhiều, nhất là khi youtube phát triển.

Cũng khoảng chục năm nay, mình luôn theo dõi “Solo cùng bolero”. Trên xứ người, không được coi TV, mình vẫn theo dõi qua youtube. Khán giả được thưởng thức lại những ca khúc quen thuộc, gắn liền với ký ức và cảm xúc của nhiều thế hệ, được thể hiện qua những giọng ca mới. Dĩ nhiên mỗi khán giả có một sở thích riêng, và trong lòng mỗi khán giả có một quán quân cho riêng mình. Với riêng mình, mùa “Solo cùng bolero” 2024 vừa qua là mùa thành công nhất từ trước đến nay, khi tìm được quán quân Nhất Minh, có một chất giọng vừa dày, tròn vành rõ chữ, lại vừa mùi, nhưng không quá bi lụy, đúng chất bolero xưa. Theo cảm nhận của riêng mình, đây là giọng nam bolero hay nhất trong suốt 10 năm qua của "Solo cùng bolero". Nghe bạn ấy hát bolero, cả một trời kỷ niệm quay về. Mình thật sự hy vọng Nhất Minh có cơ hội để được tỏa sáng thành sao trong làng bolero.

Trong giấc ngủ giữa xứ người, thỉnh thoảng mình vẫn mơ thấy có những đêm mình đạp xe đi dạy kèm về khuya, qua phố vắng, nghe nỉ non tiếng nhạc bolero từ đâu vọng lại. Giật mình tỉnh giấc, lòng vẫn còn đôi chút tiếc nuối …

NAM PHAN.