Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2017

Truyện ĐỜI PHIÊU BẠT (p.cuối) - Lê Xuân Sang.

Tản mạn GIÁ TRỊ CỦA TỪ THIỆN - Đinh Hoàng Vân sưu tầm.





Một cô gái hỏi: " Bao nhiêu tiền 1 trái dừa vậy ông? "
Ông già bán dừa trả lời cô ta, " Thưa cô 10 ngàn 1 trái! "
Cô gái nói, " Bán cho tôi 2 trái 15 ngàn được chứ ? Không được, tôi đi chỗ khác! "
Người bán hàng trả lời: " Cô lấy đi, 15 ngàn 2 trái. Tôi nghĩ như vậy cũng tốt rồi bởi vì cả ngày nay tôi chưa bán được cho ai cả! "
Cô gái lấy 2 trái dừa và bỏ đi với cảm giác của một người chiến thắng. Cô ấy bước vào xe hơi và đi đón cô bạn, cả 2 cùng tới một quán ăn sang trọng...
2 cô gái ngồi xuống bàn và gọi những thứ họ thích. Họ chỉ ăn một ít và để lại rất nhiều thứ mà họ gọi ra.
Sau đó cô ta thanh toán hóa đơn. Hóa đơn là 850k, cô gái đưa 900 k và nói với ông chủ quán: " Khỏi thối! "
_____
Sự việc này có vẻ rất bình thường đối với ông chủ quán giàu có.Nhưng nó rất đau đớn cho người bán dừa tội nghiệp.

Tại sao chúng ta thể hiện sự tính toán chi li khi chúng ta mua hàng của những người nghèo khổ tội nghiệp? Và tại sao chúng ta lại quá hào phóng với những người không cần sự hào phóngcủa chúng ta?

Mỗi lần một đứa trẻ nghèo đến với tôi để bán một cái gì đó đơn giản, tôi lại nhớ về ba tôi. Ba tôi thường mua những món đồ lặt vặt từ những người nghèo khó với giá cao, mặc dù ông không thực sự cần đến chúng. Có lần tôi thắc mắc hỏi ba về hành động “kỳ quặc” đó thì ba tôi nói: "
Đó chính là chân giá trị của cái gọi là từ thin! "

Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2017

Thơ BIỂU ĐỪNG THƯƠNG NHỚ... - Bd Thao.




BIỂU ĐỪNG THƯƠNG NHỚ NGƯỜI TA
   
Thương người dưng-nhớ người dưng
Nhịp tim khó thở-ngập ngừng đau tê.
Nghe chiều hờn dỗi hẹn về
Nghe đêm nghèn nghẹn.Trăng thề đìu hiu.

Ngậm bùa mê-uống thuốc liều
Thiêu thân thí mạng,dám yêu một người,
Kiêu hùng lãng tử chịu chơi
Tử sinh nhẹ bổng-cả đời dọc ngang.

Hỡi người dưng,chí ngang tàng
Lỡ thương lỡ mến-lỡ làng....mình ên
Đường xuôi ngược-dẫu nhớ quên
Trầm ngâm vết sẹo không tên...ngọc ngà.

Biểu đừng thương nhớ người ta
Mà sao lòng cứ thật thà ...dấu yêu.
Đâu rồi hờn dỗi kiêu kiêu
Biết ai nũng nịu-liêu xiêu...bắt đền...

Tung bờm vó ngựa thênh thênh.
Dòng trôi bến cũ-mông mênh...nhớ người.

Bd Thao
(Bình Dương 21-11-2017)

Thứ Hai, 20 tháng 11, 2017

Thơ NHÌN VỀ MỘNG CŨ - Mai Hồng Thu.





NHÌN VỀ MỘNG CŨ(*)

Tôi nhìn về mộng cũ
Mới thấy mình đáng thương
Sân khấu đời độc diễn
Chợt thấy mình đang điên
Tôi nhìn lại chính tôi
Chợt tỉnh cơn mê rồi
Chẳng còn gì để nói
Chỉ xin đời quên tôi
Quên tôi trong tha thứ
Quên tôi trong hiền từ
Để cho tôi còn giữ...
Chút hồn nhiên xa xôi!

MAI HỒNG THU - 1998
_________________
(*) Tựa của MCHX blog.

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO 20-11-2017 - MCHX blog.


MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO 20 - 11 - 2017

Truyện ĐỜI PHIÊU BẠT ( p1) - Lê Xuân Sang





ĐỜI PHIÊU BẠT  (hay ÁO DÀI ƠI) tập 1

Lời nói đầu 

Cách nay hơn 100 năm, đại văn hào Hector Malot ( Pháp ) đã cho  ra một tác phẩm để đời, đó là Sans Famille  ( vô gia đình ). Nói về một thằng bé đi tìm mẹ vì bị người cậu bắt cóc bán cho người khác   từ lúc mới lọt lòng,  với mục đích chiếm quyền thừa kế .
Ông đã "mượn" sự tìm mẹ của thằng bé để giới thiệu gần như toàn bộ  các vùng miền     nước Pháp ở đầu  thế kỷ 19, lúc mà nền công nghiệp châu Âu đang phát triển mạnh mẽ. Đó là chuyện Vô gia đình theo kiểu Pháp. 
Nay, tui cũng sáng tác một truyện ngắn Vô gia đình theo kiểu. ...VN. Đó là câu chuyện của anh chàng tứ cố vô thân tư Lê ,cũng di chuyển gần một nửa chiều dài đất nước vì cuộc đời đưa đẩy. Mặc dù cuộc đời tư Lê đã    từng  bước  ngang     qua cuộc chiến khốc liệt, nhưng tác giả chỉ lướt qua phơn phớt (như để gợi nhớ lại ở đất nước mình có một gíai đoạn như thế )     và chỉ  chủ ý đi sâu vào cuộc sống khốn khó,biết  vươn lên  của tư Lê . Đồng thời nói về  tình đời, tình người mãi mãi là chuyện muôn đời không bao giờ dứt. 
Mời các bạn xem nha. 

Và nhân đây cũng xin phép và cảm ơn tác giả các hình ảnh, mục đích để minh họa cho bài viết thêm sinh động, không vì mục đích thương mại. Đa tạ 

           x  x   x
               x  

-  Ông tư ơi, ông tư  có nhà hôn? 
Có tiếng gọi của   giọng  nữ  từ trên bờ sông vọng xuống .
-  Quái, đứa nào kêu tao sớm quá bây! Ông Tư vén chiếc mùng màu cháo lòng,ló đầu ra khỏi cái mui ghe ,ghếch mắt nhìn hướng lên bờ. 
Trong ánh sáng tờ mờ lúc rạng đông, ông Tư thấy dáng dấp của 1 bé gái chừng trên 10 tuổi đang đứng trên bờ. Dáng mảnh khảnh của nó nổi bật,thanh tú trong sương sớm. Hình như trong tay nó đang xách cái gì đó đựng trong bịch xốp  (  chú thích :  bịch  nylon ).  Ông Tư hỏi :
- Hồi nảy  ( chú thích : vừa rồi ) con kêu ông hả  ?
Con bé nói vọng xuống ,líu lo, huyên thuyên  :
-Dạ, tuần sau tựu trường rồi. Năm nay con lên lớp 6,trường bắt  phải mặc đồng phục áo dài trắng. Má con kêu ghé ông Tư đặt may cho đẹp . Ông Tư làm ơn đo lẹ lẹ để con dìa phụ má đặt lọp  ( chú thích : dụng  cụ  bắt cá )
-Ừ, xuống đây ông đo  cho 
Con nhỏ này cái miệng "lách chách " mà dễ thương thiệt. Ông tư cười thầm rồi đứng dậy với tay lấy cuộn thước dây để trong hộc máy may. Trên bờ, con bé cũng  chân sáo  tung tăng chạy xuống chiếc ghe mà ông tư đang neo đậu. 
Không biết  mừng vì thi đậu vô lớp 6, hay vì được má mua cho xấp vải trắng may áo dài mới để đánh dấu bước trưởng thành của đứa con gái chuẩn bị thành thiếu nữ mà nó tía lia cái miệng. 
Không đánh mà khai. Trong lúc ông tư đo kích thước thân thể thì nó kể là nhà ở miệt bảy  Ngàn ,ba  chết vì bị đau gan do uống rượu. Hiện 2 mẹ con đùm bọc nhau mà sống. 
-Má con đi mần mướn giỏi làm đó. Ai kêu gì làm nấy. Cuốc đất làm cỏ, cấy lúa má đều làm được hết. Giờ rãnh má đi đặt lọp bắt cá đỡ tốn tiền chợ. Lâu lâu con cũng đi phụ má đặt lọp, vui lắm. 
Nghe con bé vô tư kể về nhân thân của mình bất chợt ông tự chép miệng, nghĩ đi nghĩ lại nhà ai cũng có hoàn cảnh hết. Mà hễ  "hoàn cảnh" thì. ...."hoảnh càng " !
-Mà nhà con ở 7 Ngàn có gần chợ hôn. Có gần cái lầu ông Tây ,mà người ta thường  kêu là lầu Trắng đó?  ..Ông tư hỏi 
Con bé ngạc nhiên:
-Dạ nhà con ở gần đó. Ủa, mà sao ông  tư biết rành 7 Ngàn vậy.?
Ông tư cười hiền :
-Thì mấy năm trước ông có giăng câu,  đặt lọp ở đó. 
-Chời! Ông tư giỏi thiệt ta! Hôm nào rãnh ông tư vô 7 Ngàn chơi, con nói má làm đồ nhậu cho ông tư. Nghe xong ỗng tư mắc cười quá. Chỉ cần biết giăng câu, đặt lọp giỏi là con nhỏ tôn mình làm thần tượng rồi. Nhìn vẻ thơ ngây chân chất của nó, bất giác ông nghĩ tới thằng Lai con ông, giờ này không biết ở phương trời nào. ?!
Sau khi làm thao tác của thợ may xong, ông hẹn nó 4 ngày nữa ghé lấy . Con bé bước lên bờ,bóng nó với chiếc xe đạp khuất dần trong tầm mắt của ông tư. Ông quay vào trong, lần về phía "bếp " , bật cái hộp quẹt nhôm(  ruột là bông gòn với dầu hôi )      để nhóm lửa pha tách cà phê sáng theo thói quen. 
Thật ra "nhà " của ông là chiếc ghe tam bản nhỏ xíu  do người quen thương tình chia lại . Nhìn quanh ông cái gì cũng cũ kỹ. Từ chiếc ghe, tấm biển hiệu "Nhà may Tư Lê" , cho tới. ..con người ông đều trông cũ mèm so với thời điểm hiện tại. 
Ngồi bên ly cà phê ở đầu mũi ghe, vừa nhâm nhi vừa tận hưởng không khi yên bình nơi sông nước nầy bất chợt ông tư buộc miệng :
-Mau thiệt! Mới đây mà  đã  20 năm  mình sống nơi nầy .
"Nơi nầy " mà tư Lê nói tới, đó là vùng ngã bảy  Phụng Hiệp, nơi tập trung 7  nhánh sông qui tụ về. Nhờ vị trí thuận lợi, "đắc thủy" mà không biết từ bao giờ nó hình thành khu vực chợ tự phát trên sông nước tại đây. Bà con nông dân    từ 7 ngã sông mang hàng "tự sản" đem ra đây để. .."tự tiêu" thụ .
Thế rồi quá khứ dần dần trong ký ức  tư Lê   hiện về như mới ngày hôm qua. 

 1968.       Rời viện mồ côi Quy Nhơn   khi tròn 18 tuổi, cái tuổi được coi là "đủ lông đủ cánh" có thể tự lo cho cuộc đời của mình mà không phải nương nhờ sự cưu mang của xã hội nữa. Tư Lê sục sịt chia tay mấy sœur của viện để ra đi . ...lập thân. Hành trang của tư lúc đó là cái nghề may thời thượng học được    trong thời gian ở đây . Ở viện mồ côi các sœur luôn tạo điều kiện cho mấy đứa trẻ mồ côi như tư Lê. Đứa nào muốn học văn hoá thì sœur gửi ra các trường phổ thông, còn đứa nào muốn học nghề thì các soeur cũng tạo điều kiện cho đi học nghề. Theo đầu óc non nớt và giản đơn của tư  Lê     lúc đó thì nghề may là"ngon " ăn nhất vì nhìn quanh  đâu đâu  cũng thấy người ta mặc áo dài. Nữ sinh mặc áo dài là đương nhiên rồi, ngoài ra các mệ, các o đi một bước ra đường ,kể cả đi bán, đi chợ ,đi lễ nhà thờ,..... đều mặc cái áo dài truyền thống thì lo gì thất nghiệp! Nghĩ thế nên tư quyết tâm học nghề thiệt giỏi để "gầy  dựng tương lai". 
Thật ra Lê không phải là tên cúng cơm của tư Lê mà đó là cái họ  do mấy soeur đặt. Sở dĩ mấy sœur lấy họ Lê là vì họ này khá thông dụng  ở VN, còn tư là đặt theo từng đợt làm giấy "khai sanh  tập thể" cho đám nhỏ được nhặt từ  nơi đem về đây,mấy soeur làm một lượt. Có khi theo số thứ tự: một, hai, ba, bốn, ....Vì vậy tư Lê có tên là Lê văn Tư. Hoặc có khi soeur lấy theo một đoạn câu nào đó : Hoà ,Bình, Thống, Nhất , Hạnh, Phúc, Muôn, Năm, ....thì thằng nhỏ tất nhiên là. ....Lê văn Hoà,Lê văn Bình!      Và khi mở tiệm may, để cho ngắn gọn, mọi người  dễ nhớ Lê văn Tư trở thành Tư Lê kể từ lúc đó.
Mà không biết ông trời dung rủi thế nào mà tư Lê trôi dạt gần trăm cây số đến xã Tam Quan, thuộc quận Hoài Nhơn của tỉnh Bình Định. .
Đúng là xứ dừa Tam Quan. Nơi đây không biết cơ man nào là dừa. Trong một lần vừa đi chơi vừa tìm "kế" mần ăn, tư Lê được bà chủ nhà   tốt bụng, vừa là chủ quán nước ở góc chợ quê đồng  ý cho tư   tạm trú và mở tiệm may. Nghe hoàn cảnh của tư, bà chủ nhà sốt sắng :
- Thôi thì cứ ở đây với dì, miễn bây biết làm ăn là tốt rồi. 
Vậy là hay hổng bằng hên, từ đó tư trở thành một thành viên của gia đình bà chủ nhà. Bà này chồng chết, đang phải nuôi 2 đứa con, một đứa đang học đại học ở  Sài gòn, một đứa  đang học lớp đệ nhất ở Quy Nhơn .
Ngày qua ngày, cuộc sống cứ trôi theo dòng thời gian. Nhờ khéo tay, bảng hiệu ngắn gọn   TƯ LÊ CHUYÊN ÁO DÀI                       ngày càng đông khách.,đã trở thành "hiện tượng " ở vùng đất quê nầy. Thậm chí có người kén thợ may ,từ Quy Nhơn cũng tới đây đặt may .
Một hôm, bà chủ nhà vui vẻ buột miệng :
-tui hỗng có con gái chứ nếu có tui gả cho cậu rồi. 
Tư Lê bẽn lẽn :
-con tứ  cố vô thân ai mà thèm dì năm ơi.
Vậy mà "một hôm gió tình yêu đến"
Tư Lê "đứng ngẩng trông vời  áo tiểu thư ".
Số là như đồng hồ sinh học, ngày nào trong tiệm may nhìn ra tầm 9 giờ sáng , tư Lê đều trông thấy một cô gái độ chừng đôi tám, nước da  trắng bóc quảy gánh dừa đi ngang . Tóc cô gái xõa bờ vai. Nhất là cặp mông nhún nhảy trong chiếc áo dài sờn cũ nhưng trông đẹp lạ kỳ. Tuyệt vời nhất là tay cô đánh đòng xa theo nhịp đi cùng quang gánh coi thiệt ngộ. Hình ảnh đó khiến tư Lê chết mê chết mệt. 
"Ừ nhỉ, bỗng dưng mà họ lớn
Tuổi hai mươi đến có ai ngờ 
Một hôm gió tình yêu lại 
Đứng ngẩng trông vời áo tiểu thư"
                                  Xuân Diệu 

Ông bà ta có nói : kim trong bọc có ngày cũng lộ ra, quả đúng vậy. Với sự tinh ý và kinh nghiệm đời, bữa nọ dì năm lên tiếng :
-tui thấy cậu "mê" con Ngọc Hân ở xóm trên rồi  phải không ? Muốn thì bữa nào dì làm mai cho. 
Tư Lê đỏ mặt ấp úng :
-không có đâu  Năm ơi. Con tứ cố vô thân ai mà thèm. 
Dì năm vừa "soi " tư Lê vừa nói :
-thì cậu "tứ cố", nó "vô thân" hợp quá còn gì. Ba má  nó bị bom đạn  chết hết rồi. Nó ở với dì từ nhỏ chuyên bán dừa . Dì của nó là bà ba Nữa ở xóm trên chuyên bán dừa, bỏ mối dừa ai mà hổng biết. 
Thế là "Hợp đồng " bất thành văn giữa dì năm Ra,chủ nhà với anh thợ may tư Lê về việc mai mối này xảy ra chớp nháng. 
Và với tài ăn nói ngọt như mía lùi của dì năm Ra khiến cô gái   mới lớn Ngọc Hân và dì ba Nữa xiêu lòng cái rụp .
Vậy là chẳng mấy chốc cái đám cưới "nổi" nhất xóm của đôi uyên ương trai "tứ cố",gái "vô thân" được tổ chức  thiệt "rậm đám" . Bà con trong xóm ai cũng thương hoàn cảnh 2 đứa mồ côi mồ cút mà biết lo mần ăn. Quả là trai tài gái sắc! 
Thanh niên, thiếu nữ trong xóm tình nguyện tới dựng rạp, căng bạt  . Có nhóm vào mé biền  đốn  2 cây đủng đỉnh bự tổ chảng       khiêng về. Có nhóm đi "quơ" tóc tiên, dương sĩ, bòng bong          ,để trang trí cổng chào. Bởi vậy, tuy đám cưới nhà nghèo ở làng quê nghèo  mà rất xôm  tụ . Ai cũng nói cặp nầy hổng chừng có phước, "tiền hung hậu kiết",hậu vận sung mãn. 
Và sau cái đám cưới quê vui vẻ cả làng đó thì gần một năm sau, một thằng cu tí ra đời trong sự chào đón thân thương của bà con xóm giềng. 
Hạnh phúc vỡ òa. Hai vợ chồng mừng vui đặt tên con là Lê tương Lai với mong ước đời của nó tương lai xán  lạn chứ không gian khó như cha mẹ nó. 
Cũng từ ngày ấy, nơi tiệm may Tư Lê có thêm tiếng còn nít bi bô khiến căn nhà trọ càng thêm vui vẻ. Dì năm chủ nhà tốt bụng thấy nhu cầu tụi nhỏ về chỗ ở nên lên tiếng cho 2 vợ chồng cơi nới thêm diện tích để đủ chỗ sinh hoạt. 
Có thể nói thời gian hạnh phúc nhất của tư Lê là lúc ở nhà dì năm Ra tại nơi miền quê hiền hoà nầy.
"Đường vô xóm nhỏ quanh quanh 
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ "

Cuộc đời những tưởng cứ lặng lờ trôi như dòng sông  Kôn  hiền hoà chảy qua xứ Bình Định nầy. 
                  Nhưng một hôm ,nửa đêm về sáng, từ xa vọng lại tiếng ầm đùng của đại bác, rồi tiếng máy bay gầm rú xé tan bầu trời. Dì năm thức dậy chong cây đèn đầu, giọng lo lắng:
-chắc đụng độ lớn đây. .
Trời sáng dần, ngồi dưới hầm  trú ẩn ,tư Lê ló đầu ra quan sát tình hình. Từ xa phía bên kia biền  là cánh rừng nguyên sinh, cách nơi đây chừng 4km, máy bay quần đảo liên tục. Tiếng súng lớn, súng nhỏ nổ như bắp rang. Đến chiều, tiếng súng ngày nghe càng gần. Bà con xóm trên gồng gánh nhau tản cư.  Họ chạy ngang nhà dì năm thông báo : chạy đi chị  Năm     ơi, đánh nhau dữ lắm. ...
 Tư Lê thấy    từ bên kia biền , chiếc máy bay vừa  chúi xuống cắt bom thì cây dừa lão bị bứng gốc tung lên cao như có một sức mạnh khủng khiếp của cơn bão dữ. Ôi, chiến tranh! 
 Trận đánh ở xã Tam Quan  ngày đó kéo dài gần một tuần. Nhà cửa cháy ngùn ngùn ngụt. Chợ xã vắng teo. Người trong xã mạnh ai tìm chỗ an toàn để trú ẩn hoặc chạy ra Quy Nhơn. 
 Tình hình chiến sự ngày càng căng thẳng, kéo dài gần một tuần rồi mà không có dấu hiệu giảm nhiệt. Một hôm dì năm từ bên nhà bước qua tiệm may của tư Lê, giọng buồn lẫn lo lắng :
 -Dì thấy tình hình nầy ngày càng không ổn, dì năm bàn như như vầy, thôi thì hai đứa bây chạy về Sài Gòn mà sống. Dì cho địa chỉ của thằng Mạnh  ( con lớn của dì năm, đang học đại học ở Sài gòn ),nó bây giờ là "thổ địa " ở đó, kêu nó giúp tìm chỗ ở. Dì nghĩ tụi bây xuống đó chắc làm ăn khấm khá hơn. Còn dì chắc không đi đâu hết. Quê cha đất tổ, nhà cửa ở đây thì dì sống chết cũng ở đây. 
Nghe dì năm nói cũng có lý .  Xuất thân từ thằng tứ cố vô thân thì đâu cũng là nhà. Đã từ lâu tư Lê không quan tâm  tới chuyện"chính chị, chính em" gì cả và cái gọi là "lòng yêu nước" lại càng xa xỉ . Tư chỉ biết cuộc sống bình lặng, ngày có ăn 3 bữa là đủ. Nơi nào có bom rơi, đạn lạc thì tư cố chạy càng xa càng tốt. 
Thế là chiều hôm đó tư Lê gom góp đồ đạc dành  dụm bấy  lâu nay.   vô 2 bao tải lớn cùng vợ con lên chiếc xe đò trực chỉ  Sài gòn . 
Thằng bé Lai  mới hơn một tuổi chẳng biết gì, cứ ngủ suốt trong tay mẹ. Thỉnh thoảng thức dậy  ư,  e có vẻ vui  lắm. Nó đâu biết lòng cha mẹ nó rối bời khi nghĩ tới  tương lai mờ mịt phía trước.
Sáng hôm sau, lần theo địa chỉ dì năm Ra cho, tư Lê tìm tới nhà thằng Mạnh. 
Mạnh ở chợ vườn chuối thuộc khu bàn cờ. Nhà nó hơi sâu trong hẻm. Căn nhà này dì năm mua cho nó học suốt mấy năm Đại học ,rồi dự định khi em thằng Mạnh đậu đại học cũng lên đây. Anh em ở chung  cho tiện. Dì chọn nhà ở sâu trong hẻm thứ nhất là vừa túi tiền, thứ hai là yên tỉnh hơn ở ngoài đường. 
Sau 2 ngày ở tạm nhà thằng Mạnh , cả nhà tư Lê lại đùm túm nhau tới  căn    nhà mới do thằng Mạnh tìm giúp với điều kiện thỏa mãn 2 yêu cầu. Thứ nhất, phải vừa túi tiền, có nghĩa là căn nhà thuộc loại trung bình, không"lộng lẫy " quá, nhưng cũng không tệ quá và phải có đủ tiện nghi tối thiểu như phòng khách phòng ngủ, bếp,   phòng ăn    và. ....toilet. 
Thứ hai là phải ở mặt tiền đường để tiện việc ......mần ăn . Mà mần  ăn ở đây là may quần áo. 
Căn nhà tọa lạc trên đường Phan đình Phùng(bây giờ là Nguyên đình Chiểu ) , thuộc chợ Vườn chuối, cách tòa đại sứ Campuchia chừng 800m .Đây là căn  nhà phố chợ thuộc loại nhà liền kề. Vì liền kề nhau nên không nhà nào có cửa sổ. Để giải quyết sự tù túng ,đa số nhà ở đây đều có gác lửng, và trên gác lửng là .....mái nhà có thêm cái cửa sổ trổ nóc để hưởng chút không khí hiếm hoi  thổi vào  căn nhà. 
Tư Lê nhìn căn nhà lần đầu tiên bước vào, gật gù tỏ vẻ ưng ý :
-thằng  Mạnh tìm căn nhà này được đa,chắc mần ăn thuận lợi đây. 
Sau gần 3 ngày vợ chồng tư Lê hì hụi chưng dọn, trang trí căn nhà mới. Việc ưu tiên số một là dành hẳn phòng khách cho việc may đồ sắp tới. Nói "phòng khách" cho oai chứ có 12 mét vuông thôi nhưng cũng có thể đặt được 1 cái máy may, 1 cái máy vắt sổ, 1 bộ sa lon để tiếp khách tới đặt may, vậy là ổn. 
Trong   lúc    soạn mớ đồ đạc  lĩnh kĩnh, tư Lê lôi ra tấm biển thiếc 100 x 60 cm : TƯ LÊ CHUYÊN ÁO DÀI. 
Nhìn tấm biển mới ngày nào còn ở cách đây gần 700 cây số mà giờ  nằm nơi đất Sài gòn này . Quả thật nó giống như cuộc đời trôi nổi của tư Lê. Nhưng sao giờ đây tư thấy nó "quê "thế nào đó. Phải làm lại tấm biển  mới thôi, mà phải lớn hơn cái biển cũ cho phù hợp với căn nhà mới chứ !
Chừng 5 ngày sau, thợ quãng cáo mang thang và dụng cụ tới để trưng tấm biển hiệu sau khi được tư Lê thúc hổi làm lẹ cho kịp ngày tốt khai trương. 
Tấm biển lần này tư Lê làm "hoành tráng" hơn. Dài 3 m  ( bằng chiều ngang căn nhà phố ),chiều đứng 60cm : TƯ LÊ CHUYÊN ÁO DÀI NAM NỮ. Phía dưới là hàng chữ nhỏ hơn: bảo đãm quý bà quý cô ,  quý ông    hài lòng : lưng ong-tà úp - eo thon .
Trong suy nghĩ của tư Lê, mình mới ra tiệm, người ta chưa biết tiếng thì phải ghi như vậy cho họ chú  ý .
Ngày ấy, nếu ai đi ngang chợ Vườn chuối trên đường Phan đình Phùng, cách tòa đại sứ Campuchia  (ngã tư Phan đình Phùng -Lê văn Duyệt  ,hiện nay là Nguyễn đình Chiểu -CM tháng Tám  ) gần 1000m thì thấy 1 tiệm may mới toanh trưng biển hiệu vừa thiệt thà vừa gây sự tò  mò ,chú ý cho mọi người. 
Quả đúng vậy , có người đi xe qua còn ngoái đầu lại xem cái bảng hiệu dài dòng mà hơi bị lạ đó. Thế là họ tới đặt may một lần thử xem sao. Dần  dà tiếng lành đồn xa, người đặt may ưng ý rỉ tai bạn bè, người thân tới tiệm tư Lê ngày càng đông. 
Mà thật ra tư Lê có tài thiệt. Cô nào ít xương dư mỡ, tư Lê "nhấn ben" là có eo ngay. 😀 còn cô nào it mỡ thừa xương như con khô hố thì   qua bàn tay  tư Lê make up  sẽ thướt tha trong chiếc áo dài truyền thống như Thái hậu Vương vân Nga huyền thoại. 
Áo dài nếu đi sâu vào"chiên môn "cũng lắm điều rắc rối. Từ áo dài cổ điển cổ cao 12cm    qua áo dài cách tân cổ thấp 2 cm, cho tới không cổ  như kiểu áo dài Trần  lệ Xuân . Rồi từ  áo dài  cổ điển nổi tay nơi trên cùi chỏ, chuyển sang  nối  từ cổ  vào. ....nách mấy bà mấy cô ,gọi là áo dài raglan, thịnh hành những năm 70. Rồi từ vạt dài gần chạm gót sang vạt ngắn cũng cởn trên đầu gối. Vạt áo lúc ngang, lúc xéo. ... Thật là rắc rối  nhưng  qua tay tư Lê đều"trị "được hết, !

Thuở đó, năm 1970  phong trào mặc áo dài vẫn còn thịnh hành ở Sài gòn. Thôi thì từ các nghệ sĩ   ,đào cải lương,kịch sĩ   , ca sĩ phòng trà,diễn viên điện ảnh, cho tới mấy cô công, tư chức, mấy em học sinh nữ đều tới đặt may ở tiệm tư Lê. Vợ vắt sổ, chồng may, chẳng mấy chốc mà khấm khá .
Có thể nói, khu bàn cờ lúc đó như cái xã hội  VN thu nhỏ. Vừa có chiến tranh vừa có hoà bình. Nơi đây quy tụ dân tứ xứ đổ về sinh sống  với 1001 lý do.   Do  chiến tranh ở quê, sợ tên bay đạn lạc, làm nông  bán mặt cho đất ,bán lưng cho trời mà không nuôi nổi vợ con và còn một số người. ...trốn nợ, giật hụi cũng chọn nơi đây làm chốn dung thân. 
Những ngày đầu ở nơi thành phố lớn nhất miền Nam này, đêm đến tư Lê không tài nào ngủ được. Các nơi khác thì không biết sao chớ cái chợ Vườn chuối này dường như không ngủ. Đầu hôm là các quán nhậu, các món ăn chơi ban đêm mà dân các miền trong nước bày bán như để nhớ lại quê hương gốc gác của mình như: bún bò Huế, mì Quãng, bánh khọt, bánh cống  Cần thơ, bún nước lèo Sóc trăng.. .....Giữa khuya thì tiếng nắp khoén  ( nắp chai bia, nước ngọt )khua xèng xèng và giọng rao khàn đặc của chú chệt già : -tẩm quất đây,!,,!!!!tiếng rao mời gọi của chú chệt xa dần thì tới giọng rao :- bánh mì nóng hổi mới ra lò đây! !!!!!!!,  rồi bánh bao đây, bánh bao nhân thịt, bánh bao  chỉ đây! !!!!!,rồi phở tái Nhật Tân đây! !!kèm theo tiếng rao giọng Bắc là tiếng gõ của 2 mảnh tre nghe dòn rụm : lách cách, lắc cắc. ....
Và 3 giờ sáng là bộ mặt chợ thay đổi,chợ đêm bàn giao lại chỗ cho chợ ngày để tiếp tục cuộc sống của người tha hương xa xứ. Dần dà tư Lê cũng quen dần với nhịp sống vội vả, ồn ào nơi phố chợ. Nó đều đặn ngày nào cũng như ngày nấy khiến đồng hồ sinh học của tư Lê dần thích nghi nơi đây. 
Lại có những đêm tiếng rượt đuổi rầm rập trong hẻm, tiếng còi tu huýt ré  lên giữa đêm khuya đến rợn người. Rồi thỉnh thoảng có tiếng súng vang lên đâu đó. Tư Lê cảm thấy lo lắng bâng quơ. ...
Sống nơi chốn mới được chừng một tuần, một hôm trời vừa sụp tối, tư Lê đang tranh thủ cắt xấp vải cho kịp giao khách thì nghe tiếng động , ngẩng đầu lên chợt thấy một người dáng to lớn đang đứng sừng sững trước mặt. Tư Lê chưa hết ngạc nhiên thì người lạ vui vẻ tự giới thiệu. Anh ta tên hai Nhỏ, ở cách nhà thằng Mạnh 1 căn. Làm nghề bán bánh mì :
-tui nghe thằng Mạnh "quãng cáo"ông quá trời, bữa nay giỗ ông già, mời ông tới nhậu cho vui sẵn dịp làm quen nhau. Tụi mình chòm xóm mà. He he. 
Khác với vẻ bậm trợn bên ngoài là con người rặt chất Nam bộ của hai Nhỏ,tên Nhỏ mà không nhỏ :
-thôi dẹp cái đống quần áo của "ông" đi, nhậu  1 bữa chết chóc gì. Bữa nay tui cũng nghỉ bán bánh mì một bữa có sao đâu. He he. 
Trước sự quá nhiệt tình của hai Nhỏ, tư Lê đành phải đi theo "người bạn mới " đi vào hẻm sâu để dự đám giỗ và. ...cho biết nhà. .
Vào tới nơi thì đã có sẵn đủ mặt "bá quan văn võ " chừng chục mạng ngồi xếp bằng ở nền nhà xi măng  thành vòng tròn, chính giữa là mấy dĩa "mồi"và 1 chai rượu đế chừng 1 lít. Tư Lê đảo mắt quan sát nhanh . Có tên  xăm trên cánh tay "xa quê hương nhớ  mẹ hiền", có tên xăm trái tim với mũi tên đâm xuyên qua với dòng chữ Hận đời đen bạc.    Mặt người nào cũng có vẻ khắc khổ, bậm trợn  ,tư Lê thoáng hơi "quợn"   ,lại  có mặt thằng Mạnh nữa chứ! .Mà chắc nó là thằng trẻ nhất trong đám. 
Tổ cha mày ! Vô đất Sài gòn này mầy giao du  với cái đám "du thủ du thực", không lo học hành, tao sẽ méc má mầy cho coi. Tư Lê nghĩ bụng. 
Nghĩ tư Lê là nhân vật mới toanh, chắc còn ngại ngùng nên hai Nhỏ chủ động giới thiệu với tập thể :
- ông bà ta có nói, tứ hải giai  huynh đệ . Bốn biển đều là anh em. Tui xin  giới thiệu đây là tư Lê, dân nẫu đó nha. Thằng này gốc Bình Định, cùng xóm với thằng Mạnh đó. Hất hàm về phía "phe cũ "hai Nhỏ tiếp, còn đây là dân tứ xứ tha phương cầu thực làm đủ nghề như là bốc vác, chạy xích lô, 3 gác  , vựa trái cây, bán hủ tíu, cháo lòng, bỏ mối hàng,chạy xe ôm, ..... vì hoàn cảnh tập trung về đây kiếm sống. Vì cùng cảnh ngộ nên coi nhau như anh em một nhà. Nay đám giỗ ông già tui, mời các chiến hữu nâng ly. Một, hai, ba, zô! 
Vậy là lính cũ, mới bây giờ là chiến hữu hết. Ai nấy   nhiệt tình uống và nhiệt tình. ...say. Họ say vì nỗi buồn xa xứ và say cho tình bạn chân chất. ( hết phần 1, mời  xem phần 2 )

LÊ XUÂN SANG  (11/2017)

Thơ DÃ QUỲ - Ngoc Quynh Vu.

Viết từ phương xa - NHỮNG MÓN ĂN HUẾ - ST trên facebook.




NHỮNG MÓN ĂN HUẾ NGON VÔ HẬU!

Giữa những ngày làm việc cật lực, từ 15 đến 18 tiếng đồng hồ thẳng rẵng, ăn uống qua loa, người mệt nhừ, khô như ngói nung, như vỏ cây cổ thụ, chợt thấy lóe lên trong trí nhớ bát canh dưa hường mẹ nấu những ngày còn thơ, lòng xao xuyến, nước dãi đầy lên khóe miệng.
Những quả dưa chỉ bằng quả bưởi bói lần đầu, da xanh non màu thiên lý, có vân sọc y như dưa hấu. Mẹ gọt vỏ, rửa sạch rồi bửa làm tư hay làm sáu, bỏ ruột, thái miếng mỏng, cũng có khi mẹ đổi, bằm dưa thay vì thái miếng, để riêng trong rổ. Mẹ bóc tôm, hai ngón tay bóp cho mình tôm dẹt xuống, nát ra, để trong cái chén. Nước mắm ngon, hành tiêu, chút ớt bột, chút đường, ướp vào tôm.
Bắc nồi lên bếp, cho chút dầu. Dầu nóng, trút chén tôm đã ướp vào, tao cho tôm vàng màu hổ hoàng xong thì thêm nước lạnh, áng chừng cho vừa đủ canh để cả nhà ai cũng có phần. Canh sôi, hớt bọt kỹ, đổ dưa hường vô nồi, nêm nếm lại rồi tắt bếp. Hành ngò xắt nhỏ, rắc lên tô canh. Rau xà lách xắt rối chung với húng cây, và theo canh. Mẹ nhìn con hì hà hì hụp ăn, cười nói: “Thủng nồi trôi rế hả con?”
Ở quê người, con có đủ sơn hào hải vị. Mua nhà lầu thì khó. Mua xe đẹp hay nữ trang lớn cũng khó nhưng thèm ăn, thèm mặc gì thì không khó. Con không thèm bất cứ món ăn nào ngoài nộm bông cau, nộm vả mẹ làm với trái quả trong vườn. Con thèm canh mít non nấu lá sanh lốt. Con thèm canh dưa hường nấu tôm vừa dòn, vừa ngọt, vừa thơm đến từng chân tóc, vừa mát đến từng kẽ răng. Con nhớ nồi ốc luộc, những cái gai bưởi hăng mùi nhựa tươi để lể ốc chấm mắm gừng. Con nhớ những con cá nục chuối đỏ thẫm, óng ánh nước màu, chỉ nhìn thôi đã bứt rứt cả châu thân.
Một hôm đã lâu lắm, lúc chợ Tân Mai còn ở chỗ ngã tư Bolsa và Bushard, buổi chiều tan sở về tình cờ ghé qua, thấy mấy quả dưa hường lăn lóc trên cái kệ gỗ, mừng như bắt được vàng. Vồ lấy chúng, đem ra quầy tính tiền, hỏi bà chủ: “Chị ơi, ở đâu có dưa hường này? Mà có thường xuyên không?” Bà chủ cười, trả lời bằng tiếng Huế (chắc chắn rồi!): “Ờ, chẳng biết ai đưa tới, lâu lâu mới thấy.” Sau duyên may bữa đó, cho đến khi chợ đóng cửa, không bao giờ còn thấy dưa hường nữa.
Nói là nói vậy, mong là mong vậy, đem dưa hường về nhà, nấu nướng như mẹ, bát canh múc ra không phải là bát canh những ngày thơ ấu. Thiếu vạt áo xông mùi hành tỏi, mùi khói bếp của mẹ. Thiếu miệng cười đen lánh những chiếc răng màu hạt huyền của mẹ. Thiếu không gian buổi hoàng hôn trên vuông sân nhỏ, mẹ lúi húi qua lại cùng với đàn dơi chấp chới bay. Thiếu giấc mơ thời mới lớn với biết bao nguyện ước thần tiên mà ngay cả vị ngon ngọt của canh dưa hường lùa qua đôi môi cũng rì rào hạnh phúc. Không biết nếu có một lần nào khác, lại bắt gặp dưa hường trong một ngôi chợ ở xứ Mỹ, liệu lòng có còn háo hức như lần đầu khi hiểu rằng không bao giờ và ở bất cứ đâu, canh dưa hường có hương vị như bát canh mẹ nấu ngày xưa?
Căn nhà tôi mới dọn vào hai năm nay ở sát cạnh nhà hàng xóm có trồng một hàng cau kiểng rất đẹp dài theo bức tường làm ranh giới ngăn đôi hai bên. Mỗi lần đi đâu về, vừa quẹo vào đầu con đường nhỏ, hàng cau bên hông nhà luôn cho tôi cảm giác êm đềm của những ngày thơ ấu trên quê hương. Tuy những tàu cau kiểng ở đây rất khác với những tàu cau cho quả ăn trầu ở Việt Nam vì cau kiểng tàu lá thấp, tòe rộng như cái tán lọng, không giống những tàu cau sắc cạnh, túm gọn tít trên đầu những cây cau mảnh mai, thẳng tắp ở vườn nhà Việt Nam nhưng dù vậy, chúng vẫn thuộc họ nhà cau và gợi nhắc hình ảnh nhau trong lòng người lữ thứ như tôi.
Huế có món nộm cau rất độc đáo, ngoài Huế không đâu có. Tôi không biết có bao nhiêu người Huế lưu lạc từng thưởng thức món nộm bông cau ở Huế đến nay còn nhớ món ăn đặc biệt này? Ngay bên dưới cái tán lá bung ra, cong cong, mềm mại, in lên nền trời hôm sớm, khi bụng cau phồng lên như bụng một bà mẹ chửa con so, tôi chờ đợi từ đấy nứt ra buồng cau nhỏ xíu lơ quơ mấy cái nhánh gầy non yếu màu vàng mơ, đeo mang những trái cau chưa tượng hình, chỉ mới là chùm hột phơn phớt màu tơ tằm…
Nếu may mắn nhằm lúc mẹ tôi không bận bịu việc gì khác, bà sẽ nhờ anh phu kéo xe cho bố tôi quặp chân vào thân cau, leo lên, bóc nó xuống để bà làm món nộm bông cau cho cả nhà ăn. Ngày ấy tôi còn bé quá, ráng sức kiễng cả người cũng chưa cao ngang tầm bếp nên không biết mẹ tôi pha chế những gì, chỉ biết những nụ cau, cành cau non vừa thơm, vừa dòn và ngọt, hình như có cả mùi nhựa cau say say, trộn lẫn rau thơm, lạc rang, nước mắm chanh, tỏi, ớt, đường, giấm, tất cả hòa quyện vào nhau cùng với hương vị miếng bánh tráng gạo nướng vừa tới, chao ôi là ngon!
Tôi nhớ có ai đó trong nhà được mẹ tôi cho ăn món nộm cau, đã hít hà kêu lên: “Ôi chao, ngon chi vô hậu rứa hè!” Sở dĩ tôi nhớ câu này lâu vì tôi không hiểu tại sao người ăn khen món ăn mẹ tôi làm lại dùng hai chữ “vô hậu” vốn hàm ý chê bai một điều không tốt, không có hậu vận tương lai? Thấy ai làm việc gì ác, thiếu nhân đức, người Huế có câu mắng khá độc địa: “Đồ vô hậu!” Tôi lẽo đẽo theo hỏi mẹ nhưng mẹ tôi bảo: “Em nghe ai nói thì hỏi người đó cho chắc, chữ nghĩa đa đoan, chị không biết ý người ta.” Hồi đó tôi sợ, không dám vặn vẹo người lớn nhưng sau này khi chính tôi khôn lớn, hỏi lại đúng câu này thì mỗi người giải thích một cách như mẹ tôi đã trả lời tôi ngày nào.
Mẹ tôi hiền nhưng khôn ngoan, Tôi không thấy bà làm mất lòng ai bao giờ, có lẽ vì cuộc sống của mẹ tôi vốn đã nhiều khó khăn. Sống lâu với Huế và lớn lên ở Huế, dần dần tôi biết thêm nhiều cách dùng hai chữ “vô hậu” với ý nghĩa hoàn toàn tương phản. Khen một nhan sắc làm mê mệt lòng người, “Em ạ, yêu nhau chết cũng đành,” người Huế nói: “O nớ đẹp vô hậu!” Tôi không biết “vô hậu” trong trường hợp này và những trường hợp tương tự, ngoài cái nghĩa trách yêu “không để cho người ta sống với,” có phải nó ghép từ mấy chữ “vô tiền khoáng hậu” hay không? Thế nhưng chê một ai, một cái gì thậm tệ, người Huế cũng nói: “Ăn ở chi mà vô hậu rứa?”
Món ăn Huế thứ hai, home made, cũng ngoài Huế không tìm được ở đâu khác và mẹ tôi hay làm là nộm vả. Nhà tôi có cây vả ở vườn sau. Lá vả to, giông giống lá sen nhưng sờ nhám tay, không nhẵn như lá sen. Quả vả tròn, dẹt ở hai đầu như quả quýt, màu xanh lục, lớn nhất cũng chỉ vừa lõm tay. Hái vào, rửa sạch, luộc cho mềm. Xong, gọt vỏ, thái vừa rồi xới tơi ra. Tôm thịt tao lên, nêm nếm vừa ăn, trộn vào vả, rau răm xắt mỏng, lạc rang giã rối, vừng rang vừa vàng, giã sơ.
Nộm vả không cần nước mắm pha vì nhân tôm thịt đã rim rồi. Khi ăn, dùng bánh tráng gạo nướng để xúc thay cho muỗng đũa. Khác với nộm bông cau, tươi, dòn, mát, nộm vả bùi và ngậy, mỗi món một vẻ, món nào cũng tê tái ngon. Ngoài nộm, trái vả nhờ vị chát và thơm còn được ăn sống như một thứ rau củ dọn với món bánh khoái bên cạnh rau cải con, khế chua và tỏi sống.
Món thứ ba khiến khi xa Huế rồi cũng rất nhớ nhung là món canh mít non lá sanh lốt (theo cách người Huế gọi). Vài năm trước, một buổi chiều mùa Hè nắng muộn, trên đường về nhà qua phố Bolsa, tự dưng tôi thèm canh mít xót xa. Tôi tạt xe vào chợ, mua hai lon mít non hiệu Chao-Koh xong ra hàng rau tìm lá lốt thì không có. Chợt nghĩ chắc chỉ tiệm bò bảy món là có sẵn lá lốt nên tôi chạy tới nài nỉ xin mua lại một ít nhưng chủ nhân lịch sự trả lời là mối bỏ chỉ đủ cho tiệm làm và bán ra mỗi ngày, không có dư. Thì thôi, đành cất hai hộp mít vào tủ bếp để làm kỷ niệm. Cuối tuần làm chương trình phát thanh, ông thần khẩu xui tôi buột miệng than sao lá lốt khan hiếm quá, chợ không có, vườn nhà không có, tiệm chuyên bán bò lá lốt thì có nhưng không dư cho tôi nài lại.
Mấy ngày sau, tôi nhận được một phong bì ưu tiên của bưu điện gởi từ Florida tới đài, bên trong có ba liếp lá lốt rửa sạch sẽ, lau khô và xếp như lá trầu không, vẫn tươi nguyên như vừa hái vì được gói trong paper towel trước khi bỏ vào Ziploc, rất cẩn thận và mỹ thuật. Ngưởi gửi là chị Vân, cho biết rất thông cảm với “cơn thèm” của tôi mà vườn nhà chị thì xanh mướt lá lốt không biết làm gì cho hết.
Thời đại kỹ thuật cao này, hàng xóm có thể ở cách nhau vài ngàn dặm đường, còn gì tuyệt vời hơn nữa? Hôm đọc tin bão Irma đánh vào Florida, băn khoăn không biết khu vườn hoa lá xanh tươi của chị Vân có bị hề hấn gì không nhưng may quá, khu vực chị ở không bị ảnh hưởng trực tiếp. Nhớ ơn chị bát canh mít non lá lốt. Mít hộp không ngon bằng mít tươi hái từ vườn của bố mẹ tôi ngày xưa nhưng lá lốt chị gửi dường như thơm hơn, ở lại với mình thật đậm đà chị Vân ạ! Ai đọc bài chia sẻ lẩm cẩm này mà muốn thưởng thức canh mít lá sanh lốt, xin nhắc (anh hay chị) nhớ đừng quên nêm chút nước ruốc sau cùng, trước khi bắc nồi canh xuống nhé!
Cali nhiều nhà có cây khế sau vườn nhưng khổ nỗi Cali ít mưa. Dẫu sao, thay vì dầm khế cả vại như khi mùa Đông tới ở Huế, trời mưa suốt mấy tháng, Cali chỉ cần một cơn mưa nhỏ để đủ nước mưa cho người Cali dầm khế một hũ lớn thôi là bếp gia đình sẽ có những bát canh khế xâm trong veo, ngọt ngào và thơm ngát, ăn xong bữa mà vị khế thanh tao còn đọng lại trong kẽ răng. Có điều bầu trời Huế khi tôi lên 9 hay lên 10, chưa biết ô nhiễm là gì, không gian trong trẻo, đêm đầy sao long lanh như ngọc vãi, mưa rơi (và rơi nhiều) không cuốn theo bụi bặm hay hơi khói từ các nhà máy, có lẽ vị nước mưa cũng tinh khiết hơn?
Món ngon của Huế quá nhiều, nhất là những món của nhà nghèo. Những ai đã ăn món chột nưa kho ruốc hay dưa nưa chấm nước cá kho chắc sẽ không bao giờ quên được cái hương vị nồng cay đến cháy lòng, thấm đượm trong từng hạt cơm nhai nuốt thong thả ở một nơi chốn cuộc sống bình an, chưa hề lo âu hay vội vã.
Tôi được ăn nhiều món ngon, rẻ tiền và dễ nấu của Huế. Bây giờ, những vật liệu rẻ và dễ kiếm ấy đã trở thành rất đắt (tôi không cách nào mua được) và rất hiếm (tôi không còn tìm thấy ở đâu nữa): mẹ hiền, khu vườn cũ và tuổi thơ tôi. Cho nên, đành cất riêng nỗi tiếc thương trong lòng, nhai lại ký ức mình như con bò rời khỏi đồng cỏ xanh tươi bát ngát về chuồng, nhai lại không chỉ nắm cỏ đã tan vào xác thân nó mà cả màu trời xanh, làn gió mát, tưởng còn nguyên vẹn nhưng đã khác rất nhiều qua một giờ, qua một ngày, qua một dặm đường, như chính nó cũng không còn nguyên vẹn như hôm qua. 

Bùi Bích Hà ( 15/11/17 )

Thứ Bảy, 18 tháng 11, 2017

Thơ ĐÊM HỒNG HÒ HẸN - Nguyễn Thế Việt.




ĐÊM HỒNG HÒ HẸN(*). 

Tựa vai anh ôi đêm hồng hò hẹn.
Nhạc du dương dìu bước giữa thiên đàng.
Anh cứ ngỡ em ngất ngây, hạnh phúc
Có ngờ đâu vai đẫm lệ, em ơi!

Anh đã làm gì? Em buồn vậy Thúy ?
Cắn chặt môi, em nức nở bên anh.
Yêu em đi, đừng để trôi đi mất
Chút thời gian anh thuộc về em

NGUYỄN THẾ VIỆT. (16/11/2017)
________________
(*) Tựa của MCHX blog.

Thơ MÀU NHỚ - Xuân Duyên.

Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Tản mạn TẠI SAO QUẢNG NAM HAY CÃI? - Han Nguyen Dinh chia sẻ.

Truyện vui GIÁ TRỊ CỦA KIẾN THỨC - Sưu tầm trên net.




GIÁ TRỊ CỦA KIẾN THỨC. 

Trong vụ cướp ngân hàng, một tên cướp hét lên: "Tất cả đứng im, nên nhớ tiền thuộc về Nhà nước, còn mạng sống thuộc về các người". Mọi người trong ngân hàng nghe xong liền im lặng nằm xuống.
Điều này được gọi là: "Cách thức khai tâm - Thay đổi những suy nghĩ theo lối mòn".
- Có cô nhân viên nằm trên bàn trong tư thế khêu gợi, một tên cướp hét lên: "Làm ơn cư xử văn minh, chúng tôi là cướp chứ không phải những kẻ h.i.ế.p d.â.m!"
Điều này được gọi là "Hành xử chuyên nghiệp - Chỉ tập trung vào công việc mà bạn được huấn luyện!"
- Khi tên cướp quay lại, một tên cướp trẻ hơn (có bằng MBA) nói với tên cướp già hơn (kẻ mới tốt nghiệp hết phổ thông): "Đại ca, có phải đếm xem chúng ta cướp được bao nhiêu?". Tên cướp già gằn giọng: "Mày ngu lắm, bao nhiêu tiền, đếm thế nào được? Đợi đi, tối nay TV sẽ nói chúng ta cướp được bao nhiêu!"
Điều này được gọi là: "Kinh nghiệm - Ngày nay thì kinh nghiệm quan trọng hơn bằng cấp, sách vở"
- Sau khi băng cướp rời khỏi, giám đốc chi nhánh định gọi báo cảnh sát. Kế toán trưởng vội vã chạy đến, thì thầm vào tai ngài: "Đợi đã, hay để 5 triệu chúng ta biển thủ vào trong số bị băng cướp lấy mất!"
Điều này được gọi là: "Bơi theo dòng nước - Chuyển đổi những tình huống bất lợi trở thành thuận lợi"
- Người giám đốc tự nhủ: "Vậy thật tuyệt nếu cứ mỗi tháng lại có một vụ cướp!"
Điều này được gọi là: "Hãy loại bỏ những điều khó chịu - Hạnh phúc là điều quan trọng nhất"
- Ngày hôm sau, TV đưa tin 100 triệu đã bị cướp khỏi nhà băng. Những tên cướp đếm đi đếm lại thì chỉ có 20 triệu. Chúng rất giận dữ: "Chúng ta mạo hiểm mạng sống của mình chỉ để lấy 20 triệu, bọn chó đó chỉ ngồi chơi mà cướp được 80 triệu. Đúng là học hành, có bằng cấp thì chúng nó được ngồi cái ghế đấy, cướp tiền siêu đẳng hơn chúng ta!"
Điều này giải thích tại sao: "Kiến thức thì giá trị như... vàng"

-Sưu tầm trên net

Chủ Nhật, 12 tháng 11, 2017

Tranh vui và... cười CŨNG LÀ XE GA - Sưu tầm.

(Sưu tầm trên mạng) 

Câu chuyện phương xa NGƯỜI PHỤ NỮ NHÂN HẬU - Phong Luu sưu tầm.

Thơ UYÊN NGUYÊN MÀU NHỚ - Văn Châu.




UYÊN NGUYÊN MÀU NHỚ

Anh về gom hết thời hoa  mộng
Gửi gắm vào thơ nỗi nhớ đầy.
- Lòng mãi vấn vương tà áo trắng
Lối về vẫn rợp bướm vàng bay.

Thương dáng mơ huyền ôm tập vở
Bước nhỏ kiêu sa mỗi sớm chiều.
Để cơn gió nhẹ đùa trên tóc,
Nắng đậu bờ vai- thật đáng yêu!

Anh về gom hết thời hoa mộng
Gửi gắm vào thơ nỗi nhớ đầy.
- Giành nhau để được ngồi bên cửa
Tha hồ thả mộng, ngắm mây bay...

Mỗi độ mùa thi về bận rộn
Rủ nhau đi tìm lá thuộc bài
Đem ép vào trang văn - toán khó
Để gọi là...cầu chút vận may.

Anh về gom hết thời hoa mộng
- Gửi gắm vào thơ nỗi nhớ đầy.
Trang vở còn thơm màu mực tím
Có vần thơ nhỏ để trao tay...

Thương lắm- tuổi mười lăm, mười bảy
Bì ô mai giấu góc hộc bàn
Len lén chuyền tay chia lũ bạn
Thầy hiền- nên biết cũng quay ngang...

Anh về gom hết thời hoa mộng
Gửi gắm vào thơ nỗi nhớ đầy.
- Bâng khuâng nhặt vội chùm phượng vỹ
Ép vào lưu bút buổi chia tay.

Nếu có được ban cho điều ước 
Xin cùng nhau về lại ngày xưa!
Nguyện giữ uyên nguyên màu ký ức
- Kỷ niệm ơi! Nói mấy cho vừa...

Anh về gom hết thời hoa mộng
Gửi gắm vào thơ nỗi nhớ đầy!
......

Văn Châu.

Thứ Ba, 7 tháng 11, 2017

Truyện ngắn ÁNH SÁNG - Hoàng Đạo ( Tự Lực Văn Đoàn )



Hoàng Đạo
(Truyện ngắn Ánh Sáng của Hoàng Đạo đã được đăng lần đầu trên Tuần Báo Ngày Nay số 18, in ngày  chủ nhật 26/07/1936 tại Hà Nội)
img_5120
– Phở có nóng không bác?
– Nóng.
– Vậy bác bán cho tôi ba xu.
Cậu bé đặt sáu đồng trinh lên mặt gánh, lặng yên đứng nhìn người bán phở nhấc môi bánh nóng hôi hôi đặt vào bát. Hơi nóng trong nồi nước dùng bay tỏa ra từng đám trắng, gió chiều thổi tạt về đầu phố.
Bằng đứng phía cuối gió, đương thẫn thờ cúi xuống nhìn cỏ, bỗng giật mình ngước mắt lên. Vô tình ngọn gió đã đột ngột đem theo mùi thơm ngào ngạt làm giác quan chàng rung động. Bằng quen tay thò vào túi, và sực nhớ rằng đồng hào cuối cùng chàng đã tiêu hết từ chiều hôm trước, cả gia tài chỉ còn một đồng trinh.
Lại một làn gió thơm đưa tới, nhẹ nhàng vờn mớ tóc rối của Bằng. Như đột nhiên nghĩ đến một việc cần, Bằng hấp tấp rảo bước đi thật nhanh. Qua gánh phở, chàng ngoảnh mặt chăm chú nhìn một bông hồng lách qua giậu sắt, rung rinh trước gió, hình như không nghe thấy tiếng hàng phở chào:
– Mời thầy mua cho một bát.
Thực thì Bằng vẫn nghe rõ lắm. Nhưng chàng không muốn lên tiếng từ chối trong khi lòng chàng rạo rực nôn nào Chàng đói Chàng đói lắm: từ sáng đến giờ, chưa có một hột cơm nào trong bụng, mà cứ thế lang thang hết phố này sang phố khác.
Bằng lang thang đi tìm việc làm. Đã hai tháng nay, từ hôm Sở dầu thải hơn sáu chục người làm công, không có ngày nào là Bằng không đi như vậỵ Chàng chỉ biết có một nghề đánh máy chữ và tính sổ, mặc dầu cha mẹ chàng xưa kia chuyên nghề làm ruộng. Đáng lẽ như người khác, Bằng bây giờ đã vác cày ra đồng, khó nhọc kiếm lấy miếng ăn dưới ánh nắng thiêu, trong những ruộng lầỵ Nhưng thuở nhỏ chàng chăm chỉ và thông minh hơn trẻ khác, nên cha mẹ chàng cố nuôi chàng ăn học, có mấy sào ruộng bán dần đi hết. Bằng vì thế trở nên một thầy ký. Công việc có nhẹ nhàng nhưng cảnh người làm công, cảnh bức bách. Có điều mỗi lúc về quê, họ hàng đối với chàng đều có vẻ trọng vọng tôn kính. Còn chàng chắc cũng an phận, nếu kinh tế không khủng hoảng. Nhưng đã gần một năm nay, sở nào cũng nghe thấy nói đến việc thải người làm. Trong Sở dầu, anh em thường thì thầm bàn đến một cách sợ sệt. Duy ai nấy cũng thầm tưởng, thầm mong rằng có thải cũng không đến mình. Bỗng một hôm, đương lúc mọi người cặm cụi làm việc, người loong toong chạy vào:
– Mời các ông lên quan Đốc gọi.
Trong phòng giấy rộng rãi, sang trọng, ông Đốc đứng nghiêm trang trong bộ áo là nếp thẳng thắn. Ông cám ơn mọi người đã làm hết phận sự, rồi ông tỏ nỗi lòng ông băn khoăn, khổ sở mấy hôm vừa qua:
– Các ông ạ, sự khủng hoảng bắt buộc chúng tôi phải rời các ông, tôi lấy làm tiếc vô hạn. Tôi mong sẽ có ngày kia, kinh tế vững chãi và các ông sẽ lại về làm ở đâỵ
Nói xong, ông Đốc xem vừa ý lắm, thắt lại cái cà vạt, vuốt lại mái tóc mượt, vẻ mặt sung sướng khoan khoái, ông bước lên xe ô tô hòm giục tài xế đưa đến một khách sạn sang để dự bữa tiệc chiều.
Trong khi ấy, các ông Ký bị thải ngơ ngác nhìn nhau, rồi buồn bã người nào trở về nhà nấy với mâm cơm cà và rau muống luộc.
Ngày theo ngày, những ngày dài dằng dặc, những ngày ngồi rỗi với một tâm hồn chán nản, với cuộc tương lai mập mờ bất trắc. Mâm cơm cà và rau muống dần dần cũng không có nữa Bằng đã tới cái cảnh ngao ngán ấy. Về quê làm nghề nông thì không còn một thửa ruộng – Bằng cũng tự biết không đủ sức cầy sâu, cuốc bẫm – và làm thợ thì không biết nghề gì, Bằng chỉ còn mong tìm được một chân bàn giấy. Chàng tiêu dần hết cả tiền dành dụm, mà không có chút hy vọng nào.
Ngày hôm nay, chàng không còn một đồng xu dính túi. Đã vậy, chủ nhà, bà Cai Đá, lại nhất định đòi tiền thuê nhà, và sau một hồi thuyết lý mỉa mai, bà ta hẹn lại cho Bằng đến sáng mai phải trả, nếu không thì đứng trách.
– Đừng trách!
Bằng nhếch mép cười một cách chua chát, tâm trí đầy rẫy nỗi uất ức, tức giận. Chàng ngẫm nghĩ:
– Dốt nát ngu xuẩn như mụ Cai Đá thì chỉ việc ngồi duỗi mà sống một cách sung sướng đầy đủ, còn mình muốn làm vất vả cả ngày để nuôi thân mà cũng không được. Ông trời bất công thực.
Bằng ngửa mặt nhìn lên không trung. Trời chiều trong xanh như ngọc thạch. Mấy đám mây hồng nhẹ nhàng trôi. Bằng cảm thấy rõ sự vô lý của lòng oán hận một cảnh vật vô tình, thản nhiên…
Bỗng chàng giật mình. Một tiếng còi gắt gỏng, một câu nói bẳn và một cái xe ô tô vụt qua trước mặt chàng. Chỉ chậm một giây nữa thì Bằng bị ô tô cán phải. Thì ra chàng bước xuống đường nhựa lúc nào không biết.
Sợ hãi, Bằng lùi lên bờ hè, mới hay mình ở trước vườn hoa nha Đốc lý. Mệt nhọc, chàng ném mình xuống một cái ghế dài gần đấy, ôn lại cái nạn vừa xảy ra:
– Thật là chết hụt!
Ngẫm nghĩ, chàng tắc lưỡi:
– Chà! Chết mà lại hay…Sống khổ sở thế này thì cũng chẳng nên sống làm gì.
Thở dài, chàng xua đuổi ý nghĩ chán nản nhìn ra chung quanh. Trời đã nhá nhem tối, những bông cúc trắng rung rinh trong ánh sáng mờ mờ khiến Bằng nhớ đến cảnh xa hoa của tết năm nào.
Có tiếng nói sẽ như đáp lại ý nghĩ của Bằng:
– Lạy thầy dón tay làm phúc.
Trông người ăn mày hốc hác, rách rưới, đứng chĩa tay trước mặt. Bằng nở một nụ cười buồn tênh, lắc đầu ra hiệu rằng mình không có tiền. Người ăn mày vẫn nhẫn nhục đứng lải nhải xin. Bằng đứng dậy móc túi lấy đồng trinh còn lại ném cho, rồi vừa đi vừa nói một mình.
– Thế là hết.
Chàng lần theo những phố đông đúc, trong lòng thấy vui vui vì đã cứu một người nghèo khó hơn mình. Thấy đói và mệt, chàng dừng lại nhìn một cửa hàng bán vàng bạc, tò mò ngắm nghía những chiếc nhẫn dát kim cương lóng lánh bên cạnh mấy đôi xuyến huyền nạm vàng.
– Nếu ta có một chiếc xuyến kia nhỉ?
Bỗng một ý nghĩ bất chính nẩy ra trong trí Bằng. Như muốn tránh sự cám dỗ, chàng ngoảnh nhìn sang một cửa hàng ở dãy bên kia phố. Trong khung kính, mấy miếng xúc xích đương lơ lửng trên vài chiếc bánh tây ngon lành, và những chiếc bánh sữa đương phơi màu vàng ngọt dưới ánh điện sáng trưng. Bằng rùng mình, tưởng tượng ra một bữa tiệc long trọng, những chiếc bánh đặt trong giỏ mây bên cạnh những cốc pha lê trắng muốt, những đĩa thịt thơm thọ Bằng rùng mình, vì ý nghĩ chiếm đoạt tiền của người khác đã hình thành trong óc chàng và xui giục chàng thò tay vào lấy trộm chiếc xuyến.
– Họ có mất chiếc xuyến cũng không sao, mà ta lại được một bữa cơm ngon.
Bằng thò đầu vào cửa hàng bỏ vắng, bỗng chàng nhìn thấy bóng trong gương, mặt mày len lét, bơ phờ. Chàng kêu rú lên một tiếng rồi cắm cổ chạy như tội nhân đi trốn.
Về đến nhà, Bằng mới hoàn hồn, chàng nằm vật xuống phản, thở hồng hộc, như vừa mới thoát khỏi một cái nạn to: thiếu chút nữa, chàng đã thành một thắng ăn cắp. Nhưng nghĩ đến cách sống ngày mai, Bằng càng bối rối. Biết làm gì mà nuôi được thân bây giờ, ngoài việc bất chính? Hay là đi hành khất? Bằng nhớ lại người ăn mày ở vườn hoa Đốc lý, nhớ lại cái nạn ô tô suýt nữa xảy rạ Chàng than thở:
– Nó chẳng đè chết đi cho rảnh chuyện.
Một tư tưởng vụt ra trong trí, khiến chàng thẫn thờ lẩm nhẩm:
– Âu là…
Rồi Bằng ôm mặt nức nở khóc.
* * *
Mặt trời đã lên caọ ánh nắng êm đềm xiên qua cửa sổ. Bà Cai Đá trỗi dậy, với lấy ống nhổ, gọi con sen:
– Đỏ, mày chạy xuống đòi thầy Bằng tiền nhà đi.
Rồi bà lẩm bẩm:
– Lần này mà không trả thì bà bảo cho. Đã hai tháng của người ta rồi, mà cứ chây ra, người đâu mà trơ đến thế!
Con sen vừa mới bước xuống cầu thang, bà Cai Đá khoác vội cái áo dài, chạy liền theo, nét mặt hầm hầm.
Đến cửa phòng Bằng ở, bỗng bà đứng dừng lại, ngạc nhiên. Bà trông thấy Bằng ngồi trên thành cửa sổ tay gõ dịp xuống tường, miệng hát nghêu ngao…
– Thế nào, thầy trả tiền nhà tôi đi chứ?
Như không nghe thấy câu hỏi của bà Cai, Bằng cúi hẳn người ra ngoài, nhìn chòm lá long não phấp phới rung rinh trước gió, tươi cười như một cô con gái nhí nhảnh. Bằng không hiểu sao mình vẫn còn sống mà ra đây nhìn ánh sáng và chàng lấy làm lạ rằng sao lúc nãy chàng lại cảm thấy một cách đằm thắm hơn mọi khi, cái vui, cái đẹp của đời.
Hoàng Đạo

Thứ Bảy, 4 tháng 11, 2017

Thơ tranh KHÚC HÁT NGỌT NGÀO - hoangthilangmay.



KHÚC HÁT NGỌT NGÀO

Sững sờ
tìm mãi trước gương
Đâu rồi
héo úa
chán chường trước đây?

Nỗi niềm
trăn trở quắt quay
Hình như biền biệt…
một ngày cuối thu

Cảm ơn
mấy vạt sương mù
Gởi tặng ta…
khúc hát ru ngọt ngào

Môi cười mắt liếc
xôn xao
Hồn thơ lãng đãng
dạt dào
thăng hoa

hoangthilangmay

Thứ Sáu, 3 tháng 11, 2017

Truyện thư giãn ĐỨC ÔNG NỔI GIẬN (2) - Huỳnh Văn Huê .



ĐỨC ÔNG NỔI GIẬN - phần 2

(hay TRỞ LẠI PHƯƠNG NAM).


den_nhcanh-large-content 


 Đây nói về những ngày sau Tết Quý Tỵ, thời tiết miền Trung trở nên khó chịu khác thường. Ban đêm nhất là lúc về sáng trời trở lạnh, trong khi ban ngày lại trở nên nóng bức! Đức Ông Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (đã vĩnh viễn trở thành thần, xem lại "ĐỨC ÔNG NỔI GIẬN" phần 1 sẽ rõ) đi vào đi ra nét bực bội hiện rõ trên gương mặt.



 Trên cõi (thần tiên) này có ai hiểu được Đức Ông cho bằng chính... Đức Bà. Hiểu ý, Bà lên tiếng trước: " Cũng đã lâu Ông chưa vào Nam tìm hiểu xem dân tình thế nào, nay Tết nhứt cũng xong rồi, hay là Ông vào trong đó một chuyến xem sao?". 

  Được lời như mở tấm lòng, Đức Ông vội ân cần nhờ Bà giúp lo thu xếp hành trang. Rút kinh nghiệm của chuyến đi trước, lần này Đức Ông và đoàn tùy tùng giảm bớt, chỉ ngót hơn mười người và không vận cổ trang, chỉ chọn trang phục như người đương thời. Do đó cũng chẳng cần ngựa xe võng lọng làm chi. 

  Theo như Ông nói, đây xem như là chuyến "công tác", bày vẽ chi nhiều chỉ tốn tiền... thuế của dân đen!(?). Địa điểm đoàn đến trước tiên là núi Bửu Long, đây là ngọn núi duy nhất trong nội ô thành phố Biên Hòa, nơi đây có phục dựng lại văn miếu xưa kia của vùng đất Trấn Biên. Đặc biệt đây cũng là năm đầu tiên nơi này tổ chức đường hoa. Nơi không gian cao, thoáng đãng có nhiều cây xanh bãi cỏ, giờ lại thêm hoa lá, đèn màu rực rỡ..., đã tạo nên một khung cảnh thật là vui tươi-sống động...



 Đức Ông hướng cho các tùy tùng vào một nhóm đông người hãy còn trẻ, tuy đi vui Xuân nhưng gương mặt không được hớn hở cho lắm, nước da xanh xao, thân thể lại còn có phần... gầy gò! Họ mặc những thứ áo quần mới, nhưng được mua từ hàng giảm giá bán tại các chợ công nhân chung quanh các khu công nghiệp. Đức Ông chép miệng:

 - Tội nghiệp! Họ là những công nhân xa quê, quần quật bán sức lao động trẻ của mình để rồi Tết đến vì không có dư đủ tiền để về quê... . Họ ở lại đây là ngoài ý muốn mà thôi!


   Rồi Đức Ông lại chỉ tay về một nhóm nhỏ người mới vào. Những người này có dáng vẻ béo tốt, phương phi. Trên người họ là những trang phục hàng hiệu mắc tiền. Họ nói cười vang vang đầy tự tin... Quả không hổ danh là... thần, Đức Ông lại lên tiếng nhận định:

 - Đó là đại diện cho nhóm người được hưởng nhiều "lợi ích" của đất nước. Ta chú ý đến họ từ lúc họ đậu chiếc xe bóng lộn trị giá mấy tỷ bạc ngoài kia. - Một lần nữa Ngài lại khiến cho đám tùy tùng ngạc nhiên và khâm phục khi nói tiếp:

 - Họ chỉ mới là đám nhà giàu... cấp tỉnh thôi, cấp cao hơn đi con xe đến mấy chục tỷ trở lên! Họ đến đây chỉ để cho mọi người biết họ... giàu. Nếu do cần cù, vất vả làm ăn nên giàu có như vậy thì có gì đáng nói, nhưng thật ra vì sao họ mau giàu mà còn giàu to nữa thì ai ai cũng biết... . Ta còn biết vài ngày nữa gia đình họ sẽ đi du lịch sang Singapore, Malaysia... để ăn Tết, để phung phí ngoại tệ, gọi là để vui Xuân với người... Tàu ở các xứ đó!


  Nói xong, sau cái lắc đầu chán nản, Đức Ông ra hiệu cho cả đoàn "biến" lên đỉnh ngọn núi Bửu Long. Đứng cạnh hang Hàm Long, nhìn ra dòng Phước Long giang (tên cũ của sông Đồng Nai), mùa này nước đang trong xanh màu ngọc bích. Ánh mắt của vị tướng già chợt sáng lên một cách lạ kỳ. Quay mặt hướng về phía thượng nguồn chợt ánh mắt Ngài trở nên... tối sầm. Ngài quay sang hỏi chung quanh:

 _ Các ngươi có biết là gần đoạn sông này nhất có mấy cái thủy điện không?

 Chuyện quá dễ, học sinh tiểu học còn biết huống chi đây có mấy cựu "thám mã" dạn dày kinh nghiệm. Có người bẩm báo tức thì:

 - Thưa Ngài, gần đây nhất đang có thủy điện Trị An, và trên một phụ lưu của con sông này có thêm đập Đa Nhim, xa nữa dự kiến có thêm hai thủy điện là Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A. Còn nếu xa hơn nữa về phía thượng nguồn còn quy hoạch thêm nhiều nên hạ nhân không... nhớ hết ạ.


  Trời đang lặng gió nhưng hàm râu thưa của vị thần chợt run run... . Ngài quắc ánh mắt và nói một hơi dài với... thuộc hạ:

 - Chỉ cái tên đập thủy điện thôi cũng muốn... "chơi chữ''! Hai cái đập mà chỉ khác nhau có chữ A! Các ngươi có biết điều quan trọng này không? Phước Long giang là con sông "nội địa", bắt nguồn hoàn toàn bên trong biên giới nước nhà. Còn hai con sông lớn là sông Hồng ở phía Bắc và sông Cửu Long ở vựa lúa phía Nam là bắt nguồn tư "ngoại biên" là bên ngoài biên giới. Thử nghĩ đi, lòng người khi thế này thế khác, vận nước cũng có lúc đổi thay, khi là bạn lúc thành thù... . Nếu chỉ cần một nhúm người ác độc quyết định dùng vũ khí sinh học hay hóa học đầu độc các dòng sông đó thì mấy mươi triệu con người lấy nguồn nước nào tạm thời thay thế? Có phải chính dòng nước này hay không?


  Nói ra được như vậy hình như nỗi niềm xót xa của Ngài cũng được vơi đi phần nào. Nghỉ được một lát để hớp một ngụm nước mang theo, xong Ngài lại tiếp tục với chất giọng đầy cảm xúc:

 - Thế mà "người ta" đã đối xử với dòng sông này như thế đó. Có phải thực sự vì lợi ích của dân hay không mà xây dựng thủy điện tràn lan?! Đã có thủy điện chưa tích nước đã bị sụp đổ nát tan, có thủy điện đang tích nước chưa đạt cao trình đã bị... rỉ nước phun ra thành vòi! Làm thủy điện phải ngăn dòng và tích nước, như vậy sao khỏi xáo trộn môi trường sống của mọi loài? Đã có biết bao nhà khoa học chân chính lên tiếng phản biện rồi nhưng liệu có ai nghe không?! - Rồi Ngài lần nữa lại xua tay, lắc đầu:

 _ Thôi, chúng ta thăm cù lao Phố, nơi mới hai năm trước ta đã đến thăm. Nhưng lần này nên... "đi bộ" để xem dân chúng ăn Tết ra sao.



 Cả đoàn người lần này không dùng phép thuật "hô biến" nữa, mà thong dong đi bách bộ trên đường. Đường xá hồi này mở mang cũng nhiều, nhưng số lượng xe lại tăng cũng không kém. Hôm nay đã qua ba ngày Tết chính rồi, nhưng vì năm nay được nghỉ Tết dài ngày nên mọi người còn ra đường du Xuân khá nhiều. 

  Đến một ngã tư, Đức Ông đi dẫn đầu muốn băng qua đường nên nghiêm chỉnh dừng lại chờ đèn hiệu. Đến lúc được phép đi qua thì có một đôi nam nữ tuổi "teen" cưỡi chiếc xe máy đời mới cao cấp vượt đèn đỏ và tông thẳng vào rồi... xuyên luôn qua người Đức Ông! Theo phản xạ làm Ngài thoáng giật mình, riêng tả hữu thì... thất kinh hồn vía!


  Nhưng ai cũng biết rằng ngay cả khi có một đoàn xe lửa mà xuyên qua đoàn người cũng như xuyên qua... không khí mà thôi. Tuy nhiên Đức Ông vô cùng tức giân, mặt mày đỏ ửng, Ngài quát to như sấm dậy( nhưng người trần thế có ai nghe đâu!):

 _ Đi xe như vậy cho nên qua mấy ngày Tết thôi mà có đến mấy trăm người thiệt mạng! Không biết nền giáo dục giờ thế nào mà phát sinh ra những con người như thế.

 Đi loanh quanh một hồi, hết nhìn cái nọ lại ngắm cái kia, trời đã tối từ lúc nào chẳng ai hay biết. Khi đến một con đường đẹp trong nội thành, đèn treo lấp lánh, xe cộ rộn ràng... . Dù thế nào đi nữa trong lòng mọi người ai lại không hớn hở vui lây trước cảnh vui Xuân?


  Ngước nhìn những dây đèn giăng ngang qua đường, trên đó khen ai có sáng kiến treo lên thật nhiều lồng đèn hình... hoa mai vàng rực. Trong tả hữu có ai đó buộc miệng khen:

 - Hoa mai vàng như thế mới là... phương Nam chứ!

 Chợt Đức Ông nghiêm sắc mặt:

 - Vậy mà ta nghe đâu đó còn treo lồng đèn đỏ ngoại lai, thậm chí có chữ... "Tam Sa" nữa chứ !!! Đây biết treo lồng đèn "Hoa Mai" là một điểm đáng khen... . Nước Việt mình nào phải hết... kiểu lồng đèn!


  Trời về đêm tiết trời trở nên dìu dịu và mát mẽ hơn, cả đoàn vui chân bước đi một hồi thì đến chân một cây cầu nhỏ nhưng... mới tinh! Chiếc cầu bằng sắt sơn màu thiên thanh, đèn điện sáng choang, người xe qua lại đông vui. Nhìn vào tấm biển ghi "Cầu Hiệp Hòa" , Đức Ông gật gù lẩm bẩm:

 - Lần trước ta vào đây chưa có cầu này nên chịu cảnh kẹt... xe lửa. Nay đã có cầu này dân chúng đi lại tiện lợi vô cùng cũng là một việc hay.

 Trong tùy tùng có người thưa: "Thưa Ngài, hiện giờ có một cây cầu rất lớn đang xây để nối xã cù lao này với chung quanh, có lẽ sang năm là xong... ."

 Đến bây giờ mọi người mới thấy Đức Ông có sắc mặt tươi tắn hơn một chút, Ngài vui vẻ nói với mọi người:

 - Ta biết theo quy hoạch địa phương này còn nhiều cầu nữa... Bây giờ ta và các ngươi đi thăm đền thờ của... ta xem có gì thay đổi không. Đoàn người tiếp tục thả những bước chân nhàn du..., ngôi đền thờ này (trong chuyến đi trước Ngài đã có đến thăm) cũng không xa nơi này lắm. Khi gần đến khu vực đền thờ, trong một quán nước ven đường thấy có mấy người dân ngồi bàn bạc sôi nổi... . Người đầu tiên bước đến nghe ngóng dân tình không phải là thám mã mà chính là... Đức Ông. Những người dân thường này đâu hề hay biết là họ đã nói chuyện liên quan đến Đức Ông cho chính... Đức Ông nghe.

  Thôi thì đủ cả, từ chuyện giải tỏa khuông viên đền thờ Ngài cho rộng rãi khang trang đến việc xây bờ kè đi ngang qua cũng chính khu đền thờ này. Nghe được đầu đuôi câu chuyện gương mặt Ngài đang lúc có phần tươi vui chợt trở nên trầm tư khác trước. Ngài chậm rãi nói với mọi người:

 - Ta đâu cần phải có đền đài nguy nga hoành tráng làm chi? Có biết bao nhiêu đấng anh hùng, liệt nữ đã xả thân vì đất nước... . Cho đến giờ này họ vẫn đang ở nơi rừng sâu núi thẩm hay tại vùng biển khơi dậy sóng! Không có đền đài lăng tẩm nào cao quý, giá trị và vĩnh cửu hơn lòng dân đâu. - Có lẽ do bực bội, Đức Ông nói một tràng dài, rồi Ngài thấp giọng như tự sự:

 - Việc mở rộng đền thờ để tạo cảnh quan đẹp cho khu vực cổng làng, để thu hút khách du lịch thập phương... . Với quy mô thích hợp, vừa phải và quan trọng là đền bù giải tỏa tái định cư sao cho công bằng, tương xứng thì ta nghĩ người dân sẽ thuận lòng. Vì có ai lại không muốn quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp? - Rồi như chợt nhớ ra điều gì, Đức Ông có vẻ băn khoăn quay sang hỏi các tùy tùng:

 - Còn ta nghe nói cách nay mấy năm cái việc xây dựng bờ kè một đoạn gần hai ngàn mét đó. Hiện nay tiến hành như thế nào rồi? - Trong nhóm tùy tùng có người bẩm báo một cách rất nhanh chóng: 

 - Bẩm Ngài, sau hai lần "họp dân", mọi người đều không đồng tình với việc giải tỏa quá sâu đến 20 mét từ bờ sông. Rồi việc tái định cư chưa biết cụ thể chắc chắn là nơi nào. Rồi việc khi giải thích vì sao giải tỏa đến 20 mét, các "quan chức" chỉ nói loanh quanh bất nhất. Rồi việc... . - Đến đây Đức Ông xua tay, lắc đầu:

 - Thôi, th..ô..i.. đủ lắm rồi! Cái cách làm ăn không minh bạch như vậy làm sao trách dân không tin. Ta còn biết có tin nói rằng dự án đã thay đổi, chỉ giải tỏa có... 6 mét thôi, nhưng lại chẳng công khai cho dân biết, do đó dân gọi đó là "dự án treo"!... 


  Đến lúc này tự nhiên vẻ mặt Đức Ông trở nên nghiêm trang căng thẳng khác thường, Ngài khoát tay ra hiệu cho tất cả tùy tùng im lặng... . Bàn tay Ngài làm thành cái loa, như để... hỗ trợ thêm cho cái vành tai! Mọi người im phăng phắc, đưa mắt nhìn nhau dọ ý. Ai đều cũng biết Ngài đang dùng "thiên lý nhĩ" để... nghe chuyện gì hệ trọng lắm. Quả đúng như vậy, gương mặt Đức Ông càng lúc càng căng thẳng tột độ, Ngài nói thật gấp rút với tùy tùng:

 - Các người thông thả đi về sau. Có một "thế lực" có khả năng tàn phá khu vưc này, ta phải đoàn kết, chung sức với các vị thần của những lân bang thân thiện để chống lại... . Nói vừa dứt lời, như một làn khói mỏng bay vút lên trời cao, Ngài đã biến mất vào khoảng không tối đen... .


  Mấy ngày sau tin tức trong và ngoài nước loan truyền "có mảnh thiên thạch nổ trước khi rơi xuống vùng núi Ural thuộc liên bang Nga, gây cháy nổ trên không và làm bị thương hàng trăm người... . Và lại có một khối thiên thạch bay khá gần trái đất nhưng "không thể đến gần được!".


  Gặp lại Đức Ông sau chuyến "công tác" nóng bỏng, các thuộc hạ đều vui mừng hớn hở vì biết nơi trái đất này vừa thoát khỏi một tai họa kinh hoàng!!! Nhưng Đức Ông chỉ mỉm cười bí hiểm như " nàng Lajoconde" và nói rằng: "Thiên cơ bất khả lậu, nhưng vấn đề tối quan trọng là các vị thần của những lân quốc nhỏ (khi cần thiết) đã biết đồng lòng hợp sức với nhau để tạo nên sức mạnh... ". Vì ai cũng biết rằng một bó đũa bao giờ cũng khó bẻ gẫy hơn một chiếc đũa. Đức Ông còn nói sang năm sẽ cố gắng thu xếp để... "Trở Lại Phương Nam".



 HUỲNH VĂN HUÊ (Đầu Xuân 2013)