Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

Thơ : TIẾNG DÉP MÁ TÔI - Trần Thà Thiệt.

 



TIẾNG DÉP MÁ TÔI


Sáng má thức giấc lấy bàn chải nhỏ

Ra sau hè nhè nhẹ đánh răng 

Rồi má nấu nồi cơm sôi nhỏ

Hâm cá kho luộc ít rau lang.


Má lặng lẽ tấn mùng coi muỗi

Rồi nhẹ chân đôi dép xa dần

Trong tiếng chó xa xa gà gáy 

Buổi sáng mờ trong những làn sương. 


Những buổi sáng... Không nghe tiếng dép 

Tiếng nồi cơm ùng ục chái hè 

Những buổi đó má đâu còn nữa 

Chợt thèm nghe...tiếng dép 

thân thương. 


TRẦN THÀ THIỆT. 

Thơ : BẤT CHỢT YÊU NGƯỜI - Thạch Thảo BD.

 



BẤT CHỢT YÊU NGƯỜI


Xòe bàn tay,  có tình yêu mới nhú

Hương tỏa quanh cành,  trái ngọt oằn sai.

Dành dụm chắt chiu mấy mùa bão lũ

Gió bụi mưa bùn,  nắng táp,  sương bay.


Nâng niu giấu,  một tình yêu vừa chín

E ấp tặng người,  buổi chớm heo may.

Ngày thơm thảo,  chiều lao xao lá gió

Quả đầu mùa ngan ngát mộng đầy tay.


Dành tặng người một tình yêu mới bói

Trăng đã về,  mùa xuân ngủ trên hoa.

Bỗng dưng  thấy mình tự nhiên giàu có

Bất chợt yêu người. Yêu đến thiết tha.


Thạch Thảo BD

Ngẫm : LÝ DO ĐẮT - DieuLe sưu tầm.




LÝ DO ĐẮT


Một du khách nước ngoài vào cửa hàng bán chim chỉ vào một con chim rất đẹp và hỏi giá.

- 500 USD.

- Sao đắt vậy?

- Ồ con này hót rất hay biết trò chuyện đơn giản bằng 5 thứ tiếng khác nhau.

- Tuyệt vời. Còn con kia có tài cán gì và giá bao nhiêu? - Du khách chỉ vào chú chim khác và hỏi.

- Con ấy 2.000 USD. Nó không chỉ giỏi ngoại ngữ mà còn biết cộng trừ nhân chia rất nhanh.

Du khách chỉ vào một chú chim lụ khụ, xấu xí trong cái lồng rất đẹp treo trên cao, và hỏi:

- Con chim này chắc giá rẻ? Tôi sẽ mua con này.

Chủ cửa hàng mỉm cười:

- Ngài nhầm rồi. Con này giá 10.000 USD đấy.

Khách trợn tròn mắt:

- Cái gì? Thế thì nó phải là nhà thông thái thực sự?

Nó giỏi ngoại ngữ?

Nó có bằng tiến sỹ?

Nó là đỉnh cao trí tuệ?

- Không, nó chẳng biết gì, chẳng là gì, không học hành gì, chẳng biết gì sất...

- Vậy tại sao đắt?

- Vì nó là lãnh đạo của mấy con kia.😂😂😂  

———

DieuLe_St

Thơ: KHÔNG AI BẰNG EM ĐƯỢC - Thúy Nguyễn.

 



KHÔNG AI BẰNG EM ĐƯỢC 

Trong mắt anh không ai bằng em được

Em giản đơn, chẳng xinh đẹp mĩ miều 

Nhưng chính em -- người phụ nữ anh yêu

Nên đẹp nhất trong vạn người anh gặp.


Em trong anh như mặt trời vừa mọc

Ủ ấm anh khi đông lạnh tràn về

Em là ai để anh mãi si mê

Lúc xuân xanh tới tóc giờ điểm bạc.


Em của anh luôn nồng nàn, ấm áp 

Nhỏ nhẹ, nhu mì, chẳng chua chát điêu ngoa

Em ngọt ngào như một bản tình ca

Anh thích nghe cả đời này, em ạ!


Chẳng kiêu sa như loài hoa hồng đỏ

Mà dịu dàng bông hoa dại anh yêu

Dù bây giờ nếp nhăn cũng đã nhiều 

Nhưng với anh, em vẫn là đẹp nhất.


Ở ngoài kia có muôn vàn cạm bẫy

Họ đẹp xinh, ăn nói cũng ngọt ngào 

Anh đàn ông có thể cũng xuyến xao

Nhưng không thể anh lạc đường, em ạ.


Bởi trong anh, em luôn là tất cả 

Như thuở đầu ta đã ngỏ lời yêu

Hãy nghe anh, đừng lo lắng chi nhiều 

Nhớ một điều: -- Em luôn là tất cả..!


    Tác giả: THÚY NGUYỄN 

Tản mạn : NHỮNG GÌ CÒN LẠI - NNT.

 



NHỮNG GÌ CÒN LẠI 

"Tôi bắt đầu tin, một người không chỉ sống cho riêng mình, rằng chết chưa phải là hết, hồi ức của người đời không vì thế mà đứt lìa, vùi theo người vào đất.

Hồi ngoại trồng mấy cây xoài cát bên hè, không biết có ý đó, hay đơn giản chỉ là thấy đất trống thì trồng, lấy trái ăn. Nhưng ngoại khuất mặt rồi, cậu Năm giữ cây không cho đốn, dù chúng già cỗi lâu nay chẳng hoa lợi gì. Hôm rồi cây bị sâu đục thân chết đứng, cậu ngó bó xác khô giữa trời, ngậm ngùi như tiễn ngoại đi lần nữa. Ít ra là cuộc ra đi khỏi vùng tưởng nhớ của cháu con, cậu nghĩ vậy. Một người đàn bà cả đời ẩn hiện trong bếp, ngoài vườn và trên mảnh ruộng của mình, lúc về đất không để lại gì ngoài tấm ảnh thờ và mấy cây ăn trái trong vườn. Mớ kỷ vật ít ỏi ấy, giờ cũng mất.

Nhưng mỗi lần nhìn thấy mấy góc nhà giắt đầy mớ túi nylon mục rã, suốt từ hàng ba tới bếp là những thứ đồ dùng sứt sẹo, tụi nhỏ đều phải buột miệng “cậu Năm y chang ngoại, thứ gì cũng để dành”. Cậu không nhận ra chính mình mới là một bản sao hoàn hảo, khiến ngoại chưa bao giờ bị quên lãng trong hồi ức của người ở lại. Không cần bận tâm hư vô, bà ngoại vẫn ở lại trong dáng đi của đứa cháu, trong tính khí của thằng con, trong cái hương vị món bánh canh thịt vịt nước cốt dừa mà bà truyền dạy.

Bà vẫn ở bên ta hoài, theo một cách riêng của bà, thí dụ gặp khuôn bánh, ai đó vô tình buột miệng, “bà ngoại hồi đó hay nướng bánh kẹp, bánh bông lan…"

Làm gì có người nào sống mà không để dấu. Ngay cả một người vô dụng nhất, chẳng ra tích sự gì, lúc qua đời cũng tốt đất xanh cây."


- Nguyễn Ngọc Tư

Chuyện đời : ĐỘC TỐ GIẾT CHẾT... - PQD sưu tầm.

 



ĐỘC TỐ GIẾT CHẾT ĐÀN ÔNG


Ngày xưa, một cô gái xinh đẹp cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống hôn nhân và muốn giết người bạn đời của mình.

Một buổi sáng, cô ấy chạy đến bên mẹ và nói với mẹ "mẹ ơi, con mệt mỏi với chồng con lắm rồi, con không còn muốn chung sống với anh ấy nữa. Con muốn giết anh ấy nhưng sợ Luật Pháp bắt con phải chịu trách nhiệm, mẹ có thể giúp được không?"

Người mẹ trả lời: Được, con gái của mẹ, mẹ có thể giúp con, nhưng có một nhiệm vụ nhỏ kèm theo.

Cô con gái hỏi "nhiệm vụ gì”? Con sẵn sàng và sẵn sàng đảm nhận bất kỳ nhiệm vụ nào kèm theo để đưa anh ta biến mất"

OK, người mẹ nói:

1. Con sẽ phải làm hòa với chồng con, để không ai nghi ngờ con khi anh ta chết.

2. Con sẽ phải làm đẹp bản thân để trông trẻ trung và hấp dẫn hơn với chồng con.

3. Con phải chăm sóc chồng con thật tốt và trân trọng anh ấy.

4. Con phải kiên nhẫn, yêu thương và ít ghen tuông hơn, có thái độ lắng nghe hơn, tôn trọng và vâng lời hơn.

5. Thường xuyên bí mật kiểm tra ví và nhét tiền của con vào ví cho anh ấy.

6. Đừng lên tiếng phản đối, hãy khuyến khích hòa bình và dành tình yêu thương, để con không bao giờ bị nghi ngờ khi chồng con chết.

Người mẹ hỏi: Con có thể làm tất cả những điều đó?

Cố ấy đã trả lời: Vâng con có thể!

OK! Bà mẹ nói.

Con hãy lấy bột này và cho vài thìa vào bát cháo bữa tối hàng ngày của nó, nó sẽ từ từ giết chết nó.

Sau 30 ngày cô gái về với mẹ và nói: Mẹ ơi, con không có ý định giết chồng nữa. Đến bây giờ con càng yêu chồng con hơn vì anh ấy đã hoàn toàn thay đổi, chồng con giờ là một người chồng vô cùng ngọt ngào so với những gì con tưởng tượng!

Con có thể làm gì để ngăn chất độc giết chết anh ấy?

Mẹ ơi giúp con với!

Cô ấy cầu xin với một giọng điệu buồn bã.

Người mẹ trả lời: Đừng lo lắng con gái của mẹ. Những gì mẹ đưa cho con hôm trước chỉ là thuốc bổ dương thôi, nó sẽ không bao giờ giết anh ta.

Trên thực tế, lâu nay con là liều thuốc độc đang dần giết chết chồng con. Đó là khi con bắt đầu yêu, tôn trọng và trân trọng chồng con, con mới thấy anh ấy thay đổi thành một người chồng tốt và ngọt ngào.

Đàn ông không thực sự xấu xa, nhưng cách chúng ta phán xét họ quyết định phản ứng và cảm xúc của họ đối với chúng ta.

Là phụ nữ nếu con biết thể hiện sự tôn trọng, tận tâm, yêu thương, chăm sóc thì anh ấy sẽ 200% ở bên con.

PHAN QUỐC DZŨNG st.

Thơ : KHÁT NƯỚC Ở MIỀN TÂY - Bùi Chí Vinh.

 



KHÁT NƯỚC Ở MIỀN TÂY 


Em kể về miền Tây anh nghe 

Trời có mây, dưới nước có ghe 

Khiến cho anh biến thành con cá 

Mắc lưới, làm sao nhớ lối về 


Em kể về miền Tây hôm qua 

Còn hôm nay châu thổ xót xa 

Kinh rạch sông hồ trơ cạn đáy 

Hạn hán lòng em hết đậm đà 


Em kể về miền Tây hôm kia 

Còn hôm nay đất nứt chia lìa 

Sáu câu vọng cổ đau vành nón 

Thức cùng em hứng nước nửa khuya 


Em kể về miền Tây hôm xưa 

Còn hôm nay thương mấy cho vừa 

Hồn anh xơ xác như ngọn cỏ 

Ngóng đợi cùng em một chút mưa 


Thôi em đừng kể, em đừng kể 

Mới kể sơ sơ đủ chết người 

Miền Tây đã mất dần vựa lúa 

Giờ thêm cơn khát tự do ơi ! 

10-4-2024 

BÙI CHÍ VINH. 

Suy ngẫm : LÒNG HIẾU THẢO - Hà Lê sưu tầm.

 


LÒNG HIẾU THẢO. 

Có một ông gần 70 tuổi, góa vợ. Ông có 5 người con hiếu thảo và sống rất hòa thuận với nhau. Đứa nào cũng có gia đình riêng khá giả và thành đạt. Ông rất hài lòng, tin tưởng, tự hào về con cái mình. 

Xét thấy tuổi cao sức yếu, ông muốn chia toàn bộ gia sản cho con cái để chúng có thêm điều kiện phát triển cơ nghiệp. Ông nghĩ con mình ngoan, hiếu thảo thì mình sống với bất cứ đứa nào cũng tốt.

 Căn nhà đang ở, giao cho vợ chồng đứa út và ông sống cùng nó. 

 Phần tài sản lớn được chia gần như đều nhau cho các con. 

Được vài tháng, không khí trong nhà trở nên ngột ngạt. Vợ chồng nó hay xì xào điều gì mà ánh mắt không mấy thiện cảm. Vợ nó hay đụng thúng đá nia, chửi chó mắng mèo những chuyện đâu đâu làm ông nghe , cảm thấy chạnh lòng. Vợ chồng nó thường xuyên cãi nhau, ai cũng trở nên nóng nảy. Con vợ la to: của cải chia đều mà mình phải nuôi ổng thật là không công bằng. Ông buồn, bỏ sang ở với vợ chồng thằng thứ 2, con thứ 3, thằng thứ 4, con thứ 5, mỗi nhà cũng chỉ được vài tuần là có chuyện. Chúng hành xử như thể ông là người ở đậu, là của nợ. Chúng họp nhau căng thẳng phân chia nhiệm vụ nuôi báo cô ông. Chúng bốc thăm theo tháng, đứa trúng tháng 2 (28 ngày) cười vui vẻ, đứa trúng tháng 31 ngày, méo mặt. Cứ đến chiều cuối tháng, chúng đẩy ông ra cổng. Ông ôm bọc quần áo, ngồi chờ mấy tiếng đồng hồ, đứa kế mới đến đón. Quá buồn và thất vọng, ông hay ngồi trước mộ bà, nước mắt chảy dài, chỉ biết tâm sự cùng với bà cho khuây khỏa, trông mong một ngày sẽ đi cùng bà, được sống mãi những tháng ngày hạnh phúc và kiếp sau không mong có những đứa con này.

Thấy tình cảnh bi đát của ông, bạn ông (cũng khá giàu có) tổ chức bữa tiệc, mời tất cả 5 người con của ông đến dự. Trong men say là đà, ông rỉ tai từng đứa, dẫn đến căn phòng kín, chỉ vào chiếc rương to với nhiều ổ khóa và nói: đây là một nửa gia sản của ba tụi con gửi và ủy quyền cho chú, sau này sẽ chia cho tụi con. Di chúc đã lập chỉ chờ điền % cho từng đứa vào là xong. 

Lạ thay, ngày hôm đó chúng tranh nhau chăm sóc ông, đứa nào cũng muốn ông ở với nó. Tình thương đối với cha lai láng còn hơn lúc trước khi chia tài sản. Ông hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, cảm động rơi nước mắt và nghĩ:  đây mới chính là những đứa con thân yêu, những  dâu hiền, rể thảo của mình. Ông được sống những ngày tháng sướng nhất cuộc đời mình. Thời gian màu hồng cứ thế trôi đi thêm hơn mười năm nữa thì ông ngã bệnh, tiên lượng không qua khỏi trong vài ngày tới. 

Chúng khóc lóc, nắm tay cha không nỡ buông ra, giây phút âm dương chia biệt ngậm ngùi. 

Chiếc rương được bạn ông tức tốc chở đến đám tang và được đặt trịnh trọng cạnh quan tài, dưới hàng chục ánh mắt đau đáu nhìn vào. 

Tang lễ được cử hành trang trọng, đầy tốn kém, phần mộ uy nghi bên cạnh mộ bà và ước nguyện theo bà của ông cũng đã thành.

Sau phần tang lễ là chiếc rương được chúng nhanh chóng bật nắp mà trong lòng ai cũng hy vọng mình được phần lớn trong di chúc do công chăm sóc, tình thương và hiếu thảo của mình với cha. Nắp rương được mở...một rương đầy cát, một tờ di chúc với nét chữ thân thuộc xiêu vẹo và chữ ký của cha ./.

HÀ LÊ st.

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2024

Thơ : VỊNH ĐÁ BA CHỒNG - Kha Tiệm Ly.

 



VỊNH ĐÁ BA CHỒNG *


Chẳng là Tô Thị, chẳng Nam Xương

Một dạ trung trinh mới lạ thường

Bốn tiết gió mưa gìn tứ đức

Ba tầng son sắt vẹn tam cương

Ngàn thu bão táp bền gan đá

Chín lớp mây che vững mối giường 

Sừng sững ngang trời, cao khí tiết

“Ba chồng”, ai bịa nghĩ mà thương!


KHA TIỆM LY


* Đá Ba Chồng ở Định Quán, Đồng Nai

Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2024

Thơ : CÔNG THANH & NỖI NHỚ - hathuthuy.




 CÔNG THANH và NỖI NHỚ 

Tặng cho em những tâm tình cô giáo

Và lời thương êm ả ngát môi mềm

Hát lên em! Bài đồng dao yêu dấu

Gọi chim về ngậm nhánh cỏ bình yên .


Tặng cho em... Lời ru trong bài giảng

Có cánh cò bay lả trắng đồng xanh

Có tiếng võng giữa trưa hè im ắng

Tiếng mái chèo khua sóng nước long lanh.


Tặng cho em tình thương trong con điểm

Đỏ rực ráng chiều cuối bãi đầu sông

Đã bao năm ... Cô đưa đò lặng lẽ

Giờ xa rồi... Ngàn nỗi nhớ mênh mông.

hathuthuy 

(Trường Tân Phú - Quận Công Thanh - Tỉnh Biên Hòa 1972)

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2024

Phim ảnh : SỰ LÂY NHIỄM - Lê Quang Huy.

 



SỰ LÂY NHIỄM ( CONTAGION )

(Nhân đọc được tin một nam sinh ở Khánh Hòa tử vong vì mắc cúm gia cầm H5N1)

 Một chiếc xe ủi trong lúc làm nhiệm vụ dọn dẹp rừng ở Trung Quốc đã đốn hạ một cây chuối, làm xáo trộn môi trường sống tự nhiên của bầy dơi. Khi một con dơi lạc loài tìm đến trang trại nuôi heo để trú ẩn, nó làm rơi một mẩu chuối xuống đất và mẩu này bị một con heo ăn mất. Sau đó con heo này bị đem về một sòng bạc ở Macau giết mổ và làm thịt, rồi tay đầu bếp mổ heo truyền virus cho cô Beth Emhoff thông qua một cái bắt tay, khởi đầu cho một cơn đại dịch. 

 Đó là cảnh hồi tưởng cuối bộ phim truyện Contagion (Sự lây nhiễm), một phim hay về dịch bệnh. Được sản xuất năm 2011, đây là một tác phẩm điện ảnh dự báo hơi “mạnh tay” (vào thời điểm đó) của đạo diễn Steven Soderbergh về đại dịch và phản ứng của giới khoa học trước một cơn khủng hoảng y tế.  

 Phim hay và lôi cuốn do đạo diễn Steven Soderberg đã khai thác nhiều nội dung khác nhau đan xen, như các yếu tố gây hoảng loạn đám đông, quá trình ngăn chặn đại dịch, xung đột giữa những động cơ hành vi cá nhân với trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, những mặt hạn chế và hệ quả của phản ứng y tế công cộng… Về kỹ thuật, Steven Soderbergh đã sử dụng lối kể chuyện từ nhiều góc nhìn, chuyển cảnh liên tục giữa các vị trí địa lý và con người cách xa nhau. 

 Trong thể loại phim về đề tài dịch bệnh, có lẽ phim Contagion có nhiều yếu tố gần gũi với dịch bệnh Covid-19 nhất, dù đó là một tác phẩm điện ảnh được ra đời trước đại dịch này gần 10 năm. Có lẽ vì vậy mà khi đại dịch Covid-19 hoành hành trên khắp thế giới khiến người dân các nước phải cách ly trong nhà thì bộ phim Contagion bất ngờ được nhiều người tìm xem bởi nội dung mang tính dự báo từ 9 năm trước.

Điểm đáng lưu ý là trong phim lẫn diễn biến dịch Covid-19 ngoài đời thực, mầm bệnh đều bắt nguồn từ Trung Quốc và căn bệnh đều được kết luận là truyền nhiễm từ loài dơi.

LÊ QUANG HUY. 

Huyền diệu : NHÁT ĐỤC CUỐI CÙNG - St trên FB.

 



NHÁT ĐỤC CUỐI CÙNG

 

Ông sống tận cuối làng, cô đơn và khó tính. Không giao du qua lại với ai. 

Ngày lại ngày, có việc thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa. 

Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. 

Nguồn thu nhập chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng , nhiều ngôi chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả. 

Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm ông ngỡ ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha” giao tiếp với ông, Thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua! Ông Cha này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện. 

Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa Giêsu cao một mét bảy. - Nhưng thưa ông, Chúa Giêsu là ai, tôi không biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi? Vị Linh Mục thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề, giọng đầy phân vân: -Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng… Chúa! Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi cảm thấy xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết đấy, tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp… 

Vị Linh Mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách: - Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi, hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài. 

Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh Kinh và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa là những lồi lõm của một người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ hình. Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút nào của sự oán trách, thù hận! Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím tái hẳn đi. hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở! 

Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm. Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần bụng thót lại làm ông thấy khó khắc hơn! Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn của Người Chịu Nạn! Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như vị này! Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này! Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó của bức tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ một Lời, thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy! Hình như các vị Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì phải? Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự! cái điệp khúc “Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy bảo của Người mới cao đẹp, mới thánh thiện làm sao! Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông! Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông sắp chết, nhưng nhìn chung họ dần có cảm tình với ông. 

Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trong cả bốn quyển Tin Mừng. So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giêsu phải chịu. Ông mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật. Răng nghiến lại? Ừ, có thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng có bị méo đi không? Còn mắt? Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng? Mồ hôi và má-u thì dĩ nhiên rồi! Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?”, mà tâm hồn này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Một gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại! Từng nhát đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giêsu đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng phục. Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì được Người nếu không phải chính Người tự nguyện chết thay cho nhân loại? Gương mặt Chúa Giêsu thánh thiện và khả ái làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông. Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt. Ông vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường. Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị. Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa! Ông bước xuống giường đi ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh sáng, một thứ ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà ông. Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi… 

 Phải đến hai ngày sau dân làng mới phát giác ra ông đã chế-t dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt nhìn lên Thánh Giá!


Sưu tầm trên FB. 

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2024

Thơ : PHƯỢNG CŨ XA RỒI - Thạch Thảo BD.

 



PHƯỢNG CŨ XA RỒI.


Đây đó ve ca. Đường phượng đỏ

Hạ về, nắng mới. Tóc em thơm.

Áo bay trắng xoá trời thương nhớ

Gợi lại mùa xưa. Biệt mái trường.


Ngày ấy xa rồi. Thu mắt biếc

Có nàng ngọc nữ tuổi hồn nhiên.

Vô tư sách vở cùng bè bạn

Thân ái bên nhau. Mộng rất hiền.


Rồi mùa hạ đó, mình chia biệt

Mỗi đứa đường riêng. Gót hải hồ.

Năm tháng áo cơm. Mờ xóm cũ

Vẫn hằng đau đáu những ngày thơ.


Chiều nay nắng mới, thênh thang gió

Ve gọi hè sang, phượng đỏ cành.

Nhắc nhớ mùa xa, lòng rưng rức

Đâu rồi biêng biếc, mắt em xanh?


Gọi thầm nho nhỏ ngày xưa ấy

Bè bạn thầy cô…Thân ái ơi.

Giờ biết tìm đâu? Yêu dấu hỡi

Đầy trời thương nhớ… Ngậm ngùi thôi.


Ngày 17-3-24

THẠCH THẢO BD

Bài hát : GỞI EM - Kim Dung.

 


Bài hát hay : GỞI EM

Sáng tác : KIM DUNG

Tiếng hát : NGỌC MINH

Về bài thơ : TRỐNG THỦNG. HXH - Hoài Nguyễn.

 




TRỐNG THỦNG - Hồ Xuân Hương

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương được người đời mệnh danh là “Bà Chúa Thơ Nôm”, có nghĩa là những bài thơ theo Đường luật đã được bà “Việt hóa” và gần gũi với ngôn ngữ bình dân của người Việt mình.

Trong thơ của bà, có “thanh cao mà hàm ý tục” và người đọc nếu hiểu ý cũng chỉ tủm tỉm cười thầm. Hay nhất trong thơ của Hồ Xuân Hương là cách bà nhấn mạnh vào hai câu kết!

Người ta cho rằng Hồ Xuân Hương bị lận đận trong đường tình duyên, chỉ là phận lẻ mọn nên chuyện “chăn gối” với bà chỉ “lẻ tẻ” chẳng bõ bèn gì với nhu cầu thực nên bà mượn thơ ca để “xả stress” ví dụ như : "Năm thì mười họa hay chăng chớ. Một tháng đôi lần có cũng không", hoặc qua các bài thơ tựa như : Đánh đu, Dệt cửi, Trống thủng, Đá ông Chồng bà Chồng …

Chính từ điểm này mà một số người cho rằng Hồ Xuân Hương "khủng hoảng tình dục". Họ cho rằng Hồ Xuân Hương trẻ đẹp, đầy sức sống nhưng tình duyên trắc trở, thèm khát dục vọng, mà viết nên những bài thơ dâm ấy!

Nhưng kỳ thực, Hồ Xuân Hương nhìn cuộc đời với thế giới quan hết sức bình thường theo kinh Dịch của Nho học, có Âm thì phải có Dương đó là một sự tương giao tự nhiên trong vũ trụ để tồn tại. Không như một số văn nhân thi sĩ né tránh đụng chạm đên những vấn đề mang tính “nhạy cảm”, Hồ Xuân Hương xem sự tương giao giữa âm dương, giống đực và giống cái, giữa đàn ông và đàn bà … là chuyện bình thường như chuyện ăn mặc, ngủ thở .. để con người mọi vật sinh sôi nảy nở và tồn tại theo quy luật tự nhiên của đất trời.

Cái nhìn của bà cũng như mọi người trong mối quan hệ âm dương ấy đưa ta đến gần với tín ngưỡng phồn thực là một tín ngưỡng thời nguyên thủy xa xưa.

Thời Hồ Xuân Hương, cách đây vài trăm năm, chắc các lễ nghi mang tính phồn thực hãy còn sống trong môi trường văn hóa ấy, con người thông minh tuyệt vời ấy với trí tuệ sắc sảo của mình, đã không bỏ qua mà tìm trong đó một khía cạnh phục vụ cho ý đồ sáng tác của mình. Một mặt là nhằm làm nổi lên ý nghĩa cơ bản sâu xa của việc cầu chúc có tính ma thuật để cho sản xuất được bội thu là trở về với một quan niệm đã thành tín ngưỡng đơn giản: cái gốc của sự sinh sôi nảy nở, cái gốc của sự sống là ở sự giao hòa của hai vật khác giống. Kinh Dịch của Nho gia sẽ cho biết thêm hai vật khác giống ấy được quy vào hai khí âm dương. Từ đó những lễ nghi phồn thực chẳng còn có gì là tục tằn, càng chẳng có gì là dâm đãng. Ngược lại, nó thiêng liêng, cao quý vì nó cầu cho con người có được đời sống dồi dào hơn, tốt đẹp hơn.

Cũng ở mức độ tự nhiên, cái nhìn với phụ nữ trong mối quan hệ âm dương sẽ đưa tới một quan niệm bình đẳng giữa nam giới và nữ giới. Nếu âm dương phối hợp thì sinh ra sự sống, nghĩa là làm nên sự sống ắt phải có âm có dương, có âm thì có dương, có dương thì có âm, hai bên phối ngẫu với nhau trên bình diện ngang nhau, do đó, âm dương hoàn toàn bình đẳng. Từ đó chuyển lên mức độ xã hội, nhất định cũng phải thế.

Hồ Xuân Hương không những quý trọng thương yêu sự sống mà nhân đó còn đề cao vai trò to lớn và không thể thiếu được của phụ nữ trong chức năng thiêng liêng là sinh ra sự sống. Sinh ra con người là phải có đàn bà, đâu chỉ có đàn ông. Và thân phận phụ nữ cũng được tạo hình từ thịt xương như nhau cả, cần phải có sự bình đẳng chứ người phụ nữ không thuần túy là “đồ chơi” của mấy ông!

Trong nhiều bài thơ của Hồ Xuân Hương, tôi cũng từng họa một số bài như “Đèo Ba Dội” … nay họa thêm bài “Trống Thủng” để tiện đường cho các bạn hiểu thêm về nữ sĩ tiền bối và tài hoa này.

Bài “Trống Thủng” được Hồ Xuân Hương làm theo luật Bằng nhưng tôi họa lại theo luật Trắc và vẫn giữ nguyên vận ….

*Trống Thủng


Của em bưng bít vẫn bùi ngùi,

Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi,

Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,

Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi,

Khi giang thẳng cánh bù khi cúi

Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.

Nhắn nhủ ai về thương lấy với,

Thịt da ai cũng thế mà thôi.


Hồ Xuân Hương


*Dùi Cong


Chửa đánh mà nghe đã ngậm ngùi

Xưa nay phận mỏng chỉ là dùi

Tùng tùng mấy phát chừng như mệt

Cắc cắc vài canh đã bở hơi

Lúc mới hăm he mong gặp trống

Khi mòn lác đác cố ăn xôi

Dùi nào đánh mãi mà không thế!

Đánh trống bỏ dùi chỉ thế thôi!


HOÀI NGUYỄN  – 03/11/2015

Tản mạn : CHỮ DẠ TRÊN MÔI - St trên FB.




 CHỮ DẠ TRÊN MÔI


Nhiều người vẫn lầm tưởng khi dùng chữ  ‘dạ’ là tỏ thân phận hèn kém, bề dưới, lép vế, hay hèn mạt. 

Hoặc thậm chí hiểu sai luôn khi cho rằng chỉ người dưới mới cần dạ với người trên. 

Chữ ‘dưới’ ở đây được hiểu là người nhỏ tuổi hơn trong xã hội, hay vai em/con/cháu trong gia đình.

Mình đi dạy kèm. 

Ông nội đứa học trò ngang tuổi ba mình. Vài lần tới sớm nhóc chưa kịp tắm hoặc ăn cơm, hay những khi mưa to phải ngồi chờ cho dứt cơn mới về là bác hay tiếp chuyện mình. 

Bác cẩn thận hỏi ba mẹ mình nhiêu tuổi. Khi biết ba mình hơn bác một tuổi bác khiêm tốn xưng chú và cười thẹn:  

“Thật là có lỗi với bác bên nhà quá.”. Mình cũng chữa thẹn cho bác, nói:  

“Dạ, con cũng như em út của các anh chị bên đây nên bác là bác cũng phải mà.”

Điều đặc biệt là mỗi câu trả lời của bác luôn có chữ ‘Dạ’ đệm ở đầu câu:  

“Dạ, hồi còn thanh niên tui cũng ham chơi lắm cô.”,  

“Dạ, cháu nó còn dở dang chén cơm cô vui lòng ngồi chờ chút.”,  

“Dạ, xin lỗi cô, hai bác bên nhà năm nay chắc còn mạnh?”.

Những năm sau này không tiện ghé thăm bác mình gọi điện hỏi thăm. 

Ngôn ngữ bác dùng trên điện thoại lại càng trang trọng hơn:  

“Dạ thưa cô cháu nó lớn rồi mà tui cũng còn lo lắm”,  

“Dạ thưa cô năm nay cũng không đi lại nhiều bị cái chân nó không còn được như xưa”,  

“Dạ, bà nhà tui kỳ này cũng ít còn may vá”.

Mỗi lần gọi học sinh phát biểu, tụi nhỏ không chịu trả lời ngay mà cứ “Dạ thưa cô”,  

“Thưa cô con đọc bài” 

nghe cũng sốt ruột nhưng nghĩ lại đó là nếp lễ nghi cần duy trì nên cũng kềm bớt cái tính nóng nảy lại. 

Dạo còm-men thấy dân tình đối đáp có chữ dạ, chữ thưa sao mà thấy vui quá. Mình dạy tiếng Anh nên không ác cảm với chữ “OK” như một số người hiểu lầm là lối nói xấc xược. 

Nhưng thấy mọi người hay chốt câu chuyện bằng chữ  “Dạ anh”, “Dạ chị”, “dạ chú”, “Dạ bác” thì vẫn thấy vui hơn chữ “OK” gọn lỏn.

Những gia đình còn cố giữ lễ nghi, phép tắc vẫn dạy con luôn có chữ “Dạ” đầu câu. 

Cô hỏi con mới đi Đà lạt về hả, trò trả lời

“Con mới về á cô.”

Mẹ quay qua nhắc con: 

“Con phải nói dạ con mới về”.  

“Con 5 tuổi”, 

con phải nói là 

“Dạ thưa cô con 5 tuổi”,  

“Con ăn rồi.”, 

con phải nói là  

“Dạ con ăn cơm rồi”.

Lang thang quán xá, 

“Chị ơi tính tiền.”, 

“Dạ, của em 5 chục nha”. 

Ra khỏi quán, anh bảo vệ hỏi đi hướng nào để dắt xe giùm, ngại quá bảo anh cứ để em,  

“Dạ, không sao chị. Chị cứ để tui.”

Xứ Đàng Trong, chữ “Dạ” đệm đầu câu cho câu nói thêm dịu dàng, khiêm tốn, và để thể hiện con nhà có giáo dục, lễ nghi, phép tắc. Nào phải đớn hèn, nhục nhã gì đâu! 

Chỉ sợ sau này thứ văn hóa xuống cấp thì 2 mẫu tự tạo nên chữ ngọt ngào ấy cũng sẽ tuyệt chủng.


Chuyện của Sài Gòn

Sưu tầm

Thơ : TRỞ LẠI TRƯỜNG YÊU - Trâm Nhân.

 



TRỞ LẠI TRƯỜNG YÊU

(Trâm Nhân thương tặng các cựu học sinh trường Trung học tư thục Minh Đức, Pleiku khối tú tài IBM 1974 nhân dịp về thăm trường cũ)


Nắng sân trường rực rỡ sáng tháng ba

Vài tiếng ve đan cài trong vòm lá

Chùm phượng vỹ lửng lơ bên thềm hạ

Gió xạc xào reo khúc hát hoan ca


Em có về, mình hò hẹn tháng ba

Áo trắng sân trường, rưng rưng ngày hội khóa

Sống lại một thời hoa niên trong trẻo quá

Kỷ niệm ùa về giăng ký ức xanh rêu


Năm mươi năm ta trở lại trường yêu

Đây góc lớp, đây chỗ ngồi thân thuộc

Hành lang đó, mỗi ngày ta đếm bước

Khoảng sân này ghi dấu những bàn chân


Năm mươi năm, mái tóc đã hoa râm

Vết thời gian in hằn trên khóe mắt

Bạn bè xưa, người đã đi xa lắc

Để người còn một khoảng lặng chơi vơi


Ta trở về nguyên vẹn tuổi đôi mươi

Khung trời cũ mênh mang màu mực tím

Tà áo trắng vương hồn ta xao xuyến

Bài thơ tình viết mãi vẫn chưa xong


Em có về hò hẹn tháng ba không?

TRÂM NHÂN. 

Pleiku, 19/03/2024

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2024

Thơ : NẮNG THÁNG BA - Xuân Duyên.

 



NẮNG THÁNG BA.

Nắng tháng ba sao dịu dàng thế nhỉ?

Lúng liếng cười trao ánh mắt đưa duyên

Đoá súng hiền ngoan ngoãn cạnh bên hiên

Nghe hoang hoải bỗng trầm im đến lạ

Mây bay đi như bặt chim tăm cá 

Vạt nắng vàng có để lại trong tôi

Tháng ba ơi ,còn đọng ở bờ môi

Hồng lên nhé, cho cuộc đời xanh mãi

Ai rẽ lối cho thuyền ra bến bãi 

Nhớ ân tình ,hoa sẽ dạt về đâu? 

Tháng ba ơi ,còn bao chuyện bể dâu

Cây thay lá ..thời gian dần tan tiến

            XUÂN DUYÊN  - 3/2024

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2024

Suy ngẫm : BẠN THẬT MAY MẮN... Sưu tầm.

 



BẠN THẬT MAY MẮN KHI SỐNG QUA ĐƯỢC TUỔI 65


Cảm ơn ai đã tổng hợp số liệu thống kê này !

Đọc để hiểu chúng ta may mắn như thế nào nếu đã ở trên tuổi 65 và có nhà, có đủ cơm ăn và áo mặc.

Dân số hiện tại của Trái đất là khoảng 7,8 Tỷ người. Tuy nhiên, ai đó đã cô đọng 7,8 Tỷ người trên thế giới thành 100 và sau đó thành các thống kê tỷ lệ phần trăm khác nhau.

Kết quả phân tích tương đối dễ hiểu hơn nhiều.

* Trong số 100 người có: 11 ở Châu Âu, 5 ở Bắc Mỹ, 9 ở Nam Mỹ, 15 người ở Châu Phi và khủng khiếp khi nghĩ có tới 60 người Châu Á.

* Trong số 100 người: 77 có nhà riêng và 23 không có chỗ ở.

* Trong số 100 người: 21 người được nuôi dưỡng quá mức; 64 có thể ăn no; 15 người thiếu dinh dưỡng.

* Trong số 100 người: 87 có nước uống sạch, 13 hoặc thiếu nước uống sạch hoặc tiếp cận với nguồn nước bị ô nhiễm.

* Trong số 100 người: 75 có điện thoại di động và 25 không có.

* Trong số 100 người: 30 người có quyền truy cập internet, 70 không có điều kiện lên mạng.

* Trong số 100 người: 7 nhận được giáo dục đại học và 93 đã không được học đến bậc đại học.

* Trong số 100 người: 83 người có thể đọc còn lại 17 người mù chữ.

* Trong số 100 người: 33 người theo đạo thiên chúa, 22 người theo đạo Hồi, 14 người theo đạo Hindu, 7 là Phật tử, 12 là các tôn giáo khác và 12 người không có tín ngưỡng tôn giáo. Như vậy Phật tử chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ và tỷ lệ này ngày càng giảm.

* Trong số 100 người: 26 sống dưới 14 năm, 66 người chết từ 15 đến 64 tuổi, 8 người trên 65 tuổi.

Bạn thật may mắn khi đã sống trên 65 tuổi, nghĩa là trong số 100 người, có 92 người phải chết trước tuổi 65.


KẾT LUẬN:


- Nếu bạn có nhà riêng của mình,

- Ăn đầy đủ các bữa ăn và uống nước sạch,

- Có điện thoại di động,

- Có thể lướt internet và đã đi học đại học,

- Bạn đang ở trong một lô nhỏ - rất nhỏ - có những đặc quyền mà 93% nhân loại KHÔNG được hưởng.

🌹Và quan trọng là bạn hiểu tại sao người ta chọn tuổi 65 để được hưởng lương hưu và các phúc lợi xã hội? Há há 😂

Trong số 100 người trên thế giới, chỉ 8 người có thể sống hoặc vượt quá 65 tuổi. Nếu bạn trên 65 tuổi. Hãy bằng lòng và biết ơn. Bạn đã là người có phúc giữa nhân loại.

Hãy chăm sóc sức khỏe của chính mình thật tốt vì không ai quan tâm tới bạn hơn chính bạn!

Và ta nên cư xử với mọi người như với chính mình. Không phân biệt giai cấp, giới tính, đảng phái chính trị ... 


Sưu tầm!

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2024

Cùng suy nghĩ : VỀ 2 CÂU NÓ NÓI XƯA - KTL

 



VỀ HAI CÂU NÓI XƯA  

 Có hai câu nói của xưa dường như ai cũng biết, nhưng về ý nghĩa thì lại giải thích chẳng giống nhau. Chúng tôi xin trình bày sau đây đề quý vị cùng tham khảo.

 Thứ nhất là câu “Hậu sinh khả úy!” (Kẻ sinh sau đáng sợ!). Theo sự hiểu biết của hầu hết mọi người từ trước thì đây là LỜI KHEN của Đức Khổng Tử sau khi “tranh luận” và bị… “bí” với đứa bé sáu tuổi tên là Hạng Thác. (Câu chuyện nầy quá phổ thông nên chúng tôi nghĩ không nên viết lại – Quý độc giả  nào muốn tìm hiểu thêm xin tra cứu “Khổng Tử  và người Hạng Thác). 

 Người ta hiểu rằng Khổng Tử đã bái phục Hạng Thác, và khẳng định là kẻ sinh sau luôn thông minh hơn, tài giỏi hơn người đi trước. 

 Câu thứ hai là: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Câu nầy được hiểu là:”Một chữ cũng là thầy; nửa chữ (cũng) là thầy”,  nó hàm ý nhắc ở mọi người không được quên ơn thầy dù thầy mình có dạy mình nhiều thứ (nhất tự) hay chỉ dạy mình một vài điều nhỏ nhặt nhất (bán tự).

 Khi còn học tiểu học, tôi vẫn được dạy như trên, nhưng từ khi được thầy Trần Văn Huấn  (cháu nội của nhà cách mạng Trần Quý Cáp) dạy cho Hán Văn thì thầy lại bảo rằng “Hâu sinh khả úy!” không phải lời khen mà là một LỜI THAN: “(Đạo đức, nhân phẩm, lễ nghĩa… của) Kẻ sinh sau (thật) đáng sợ!”' Đây là một lời nói chua xót, ẩn tàng một cái nhìn không mấy thiện cảm với lớp hậu sinh qua một cậu bé sáu tuổi mà đã nói lên những câu hỏi, những câu trả lời ngông nghênh và thiếu lễ độ với bậc tiền bối. Những câu hỏi của Hạng Thác hỏi Khổng Tử như: “Trên trời có mấy ngôi sao?”, “Dưới đất có bao nhiêu nhà?” hay “lông mày có mấy sợi?” thì bất cứ đứa trẻ nào cho chút thông minh và chút … láu cá đều hỏi được; hoặc khi Hạng Thác bày trò xếp gạch giữa đường, cản đầu xe Khổng Tử, ngài bảo: “Sao mầy không tránh xe tao?”. Đáp: “Xưa nay xe phải tránh thành chớ thành nào phải tránh xe”. Đây là lý luận của một đứa trẻ con KHÔN LỎI mà thôi. Có người bảo: “Nếu Khổng Tử không phục, sao lại bái Hạng Thác làm thầy?”. Thưa: “Chuyện Khổng Tử bái Hạng Thác làm thầy chỉ thấy ở ngoại sử, mà ngoại sử thì ai muốn thêu dệt thế nào tùy ý. Cho dù là chuyện có thật thì cũng không có gì là lạ, bởi bất cứ ai cũng có thể là thầy của Ngài: “ Ba người cùng đi ắt có thầy ta. Chọn người thiện thì là ta theo, nếu người không thiện thì ta lấy đó mà sửa mình” (Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư yên; trạch kỳ thiện giả nhi tùng (tòng) chi; kỳ bất thiện giả nhi cải chi).

 Nếu hiểu “kẻ sinh sau đáng sợ!” là một lời tán dương, thì nó chỉ đúng về khía cạnh khoa học, về tiến bộ  trật tự xã hội ngày nay; nhưng lúc đó Hạng Thác có biết gì về khoa học,  ngoài những câu hỏi đáp ngang bướng với Khổng Phu Tử, thì lấy chi mà khen tặng”?

 Một câu hỏi có tính khoa học mà Hạng Thác hỏi Khổng tử: “Tại sao mặt trời buổi sáng lại lớn hơn buổi trưa? - “Vì  mặt trời buổi sáng gần hơn” – “Sao gần hơn mà nó lại mát hơn (buổi trưa)?”. Khổng Tử không giải thích được. Nếu Hạng Thác thật sự là một “hậu sanh khả úy” , hiểu theo nghĩa kẻ sinh sau thông minh hơn, giỏi hơn người trước thì đã giải thích được hiện tượng nầy rồi; đàng nầy Hạng Thác hỏi được , nhưng cũng “bí” vì điều thắc mắc của mình, thì sao gọi là “giỏi”?  Ta nên nhớ rằng Khổng Tử là nhà tư tưởng chớ không phải là nhà khoa học. Hiện tượng  mặt trời đỏ và lớn vào buổi sáng mãi đến tiền bán thế kỷ 17 người ta mới giải thích được khi biết… trái đất tròn và xung quanh trái đất có lớp không khí dày đặc!

 Nếu Hạng Thác giỏi hơn Khổng Tử thì sao từ đó về sau ta không gặp tên Hạng Thác trong bất kỳ loại sách vở nào nhắc đến? Điều nầy làm ta nghi ngờ Hạng Thác chỉ là nhân vật của trí tưởng tượng.

 Nhưng lời than “kẻ sinh sau đáng sợ” thì thấy dẫy đầy: gian xảo, lưu manh, chém cha đánh mẹ, lừa thầy phản bạn, giết người hàng loạt, mổ mật, lấy tim…!

 Về câu: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Đây là câu nói truyền khẩu trong dân gian mà có lẽ xuất phát từ những lão nho. Theo thầy Trần Văn Huấn, nó không phải là lời khuyên mọi người nên “tôn sư trọng đạo” như đã nói ở trên, mà là một câu đầy tính mai mỉa: “ Một chữ cũng (bày đặt) làm thầy; nửa chữ cũng (bày đặt) làm thầy!” (Chữ “vi” nghĩa là “làm” chứ không phải “là”); Câu nầy cũng không ngoài để chế nhạo những lang băm, học qua loa hay học lóm được mấy bài thuốc rồi “nhảy” ra trị bệnh cho người!

 Với chữ Hán, tôi còn chưa biết viết nét nào trước, nét nào sau, nên nào dám lạm bàn cái nào sai, cái nào đúng; nhưng vì hai câu trên quá phổ thông trong đời sống hàng này nên mạo muội viết bài nầy chỉ mong thỉnh ý quý vị cao thâm.

KTL.

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2024

Thơ : THẤT CHÍ CA - Kha Tiệm Ly.

 



THẤT CHÍ CA

 

Từ thuở chim rừng bặt lối quen,

Vẫn mơ về núi cũ êm đềm.

Ta mang theo nửa hồn mưa gió,

Một nửa hồn yêu gởi lại em.

 

Quán cũ xuân về ta với ta,

Ngoài sân buồn bã cội mai già.

Bâng khuâng nhấp rượu, sầu nghiêng chén,

Gió buốt đâu về cợt cánh hoa!

 

Một chút tàn đông cũng lạnh lùng,

Bụi đường chưa rũ áo sương phong.

Liễu gầy xõa tóc, ta say tỉnh,

Khi hạt nắng vàng rụng cuối sông.

 

Rượu mới lưng bình đã vội say,

Diễm xưa còn thẹn chuốt mi dài?

Xa xăm màu má thơ ngây ấy,

Sao lại rơi vào chén rượu cay?

 

Dong ruỗi chưa chồn vó ngựa câu,

Bút nghiên còn  thẹn với tinh cầu,

Thị phi không rõ màu đen trắng,

Bởi mắt nhân gian vốn đục ngầu!


KHA TIỆM LY

Thứ Năm, 29 tháng 2, 2024

Thơ : TÌNH TỰ THÁNG 3 - hathuthuy.

 



TÌNH TỰ THÁNG BA

Nắng reo bài tháng ba

Lên bát ngát hoa vàng 

Trên con đường êm ả

Bình minh rơi miên man


Mây hát bài tháng ba

Tặng đàn cò xoãi cánh

Lục bát chiều thiết tha

Hoàng hôn hồn cổ tích.


Gió hát bài tháng ba

Hoa Sala say ngủ 

Giữa đất trời bao la

Êm êm lời tình tự.

hathuthuy

Tiểu phẩm : THÁNG GIÊNG GIÓ... - Nguyễn Ngọc Tư.

 



THÁNG GIÊNG GIÓ BỎ NHÀ ĐI. 

Trăm năm trước ông bà mình khi chất hành lý lên ghe men theo bờ biển vô Nam khai phá, phía đó còn không có bạn bè chờ sẵn. Trước mặt mịt mù, nhưng họ vẫn dứt dây ghe cái một.


---


"Một bữa cơm trước Chạp, thằng cháu nội ông đột ngột nói sẽ đi miền Đông. Ai nấy đều ngừng đũa. Chuyện này rồi sẽ tới, mọi người trong nhà, kể cả ông già đều lường trước, nhưng khi nó thật sự ập vào thì đỡ không nổi cơn choáng váng. “Ở đây thiếu cha gì công chuyện để làm, sao phải đi?”, bữa đó cả nhà xúm thuyết phục thằng nhỏ, nhưng nó chỉ nói thêm một câu khi lùa xong chén cơm, “xóm này tụi nó đi muốn hết, thằng Chín cũng đi rồi”. Chín là bạn thân nó, nhưng cả nhà biết hai đứa không chỉ thân, Chín còn có đứa em gái duyên, da mật. Cô đã cùng đi với anh mình.


Những thanh niên trong xóm Cầu Nâu kéo nhau ngược miền Đông từ vài năm trước. Hồi đầu thì lác đác, nghe tin đứa nhỏ nào bên xóm đó quảy túi bỏ đi, ông già không mảy may nghĩ chuyện đó liên quan tới mình. Nhưng bữa cúng đình, thấy thanh niên thưa thớt, mấy ông già ngồi kiểm đếm coi con cháu nhà nào đang đi - ở, ra một con số không nhỏ. Nếu như con số có mùi vị, thì nó hẳn mang mùi mất mát. Lúc đó ông già bất giác nhìn thằng cháu mình đang làm trà đá đằng góc sân, thấy bần thần.


Nhưng cảm giác bất an cộm lên trong lòng ông, từ anh em thằng Chín khăn gói đón xe đi Bình Dương. Thằng cháu ông buổi tối không còn chải tóc vuốt keo láng mướt, hớn hở xách xe chạy đâu đó, giờ nó treo mình trên võng cắm mặt vào điện thoại. Hỏi sao không đi xóm chơi, nó nói nhìn coi cái xóm này còn ai nữa mà chơi. Ngoài đường vắng ngắt, đêm là dành cho đám trẻ, nhưng tụi nó giờ cũng tản mác xứ người, nên đêm của những làng xóm miệt này bị bỏ rơi.


Cả nhà lén lút bàn nhau tìm công chuyện cho thằng nhỏ làm, tay chân bận bịu thì nó bớt ngó phía chân trời. Ông già o bế lại cái đầm tôm bỏ không lâu nay, giao hết cho nó, từ coi giữ, cho ăn, đến mỗi tuần lấy mẫu tôm đi xét nghiệm. Thấy thằng nhỏ chăm chỉ, cả nhà mừng. Lúc đó đâu ai biết nó âm thầm gom mớ vốn cho ấm túi lúc ra đi, tiền sẽ bảo đảm cho cuộc trốn thoát thành công, kể cả nó không nhận được sự cho phép của người lớn.


“Người ta không đất không nghề ngỗng mới bỏ xứ đi, nhưng nhà này đâu tệ”, ông già tức tối nói. Con dâu ông, tức má thằng nhỏ, cũng sụt sịt rằng mình no đủ, làm chủ vẫn hơn làm công. Nước mắt chị không làm thằng nhỏ mủi lòng. Và cái cớ yếu ớt đó, nhưng cũng bị thằng nhỏ bẻ gãy cái một, khi kể tên một lô lốc những đứa trạc tuổi nó, con nhà giàu nhưng bỏ xóm đã lâu. Tụi nó rậm rật đi theo tiếng gọi của bạn bè, của những đứa con trai (con gái) mà mình thầm thương nhớ, của những cơn gió mùa, của những chân trời xa xôi.


Vợ ông hồi tại thế cứ nhắc hoài, vụ con trai chưa giáp thôi nôi ông đã nhảy tàu đi Nam Vang chơi với bạn. Bà nói lúc má chồng trao đôi bông cưới, cứ nhìn con dâu bằng cái nhìn áy náy, bà thấy lạ nhưng rồi sớm hiểu tại sao. Người nhà này có máu giang hồ. Vì tính hay đi mà lúc thằng con lén đi đăng lính, lúc người ta bửa đập dẫn mặn vào đồng, lúc bà bị đau thương hàn suýt bỏ mạng, chồng bà đều tình cờ vắng mặt. Giờ bà mà còn sống, chứng kiến thằng cháu nội sửa soạn cuốn gói, thể nào cũng nói nó giống ông chớ ai.


Nhìn vào mình, ông già biết thằng cháu đi chỉ để mà đi, có trời cản nổi. Nhượng bộ duy nhất của nó là ở nhà cho tới ra Giêng. Cái Tết của nó trôi qua chậm đến phát điên, nhưng với cả nhà thì quá nhanh, vèo cái đã hết. 


Hình ảnh sau cùng mà ông nhìn thấy là cái lưng của nó... Chừng như nó sợ nhìn thấy ông nước mắt lưng tròng. Người già mà khóc, coi thê lương. Nó đã ớn nước mắt lắm rồi. Ba lô chỉ mỗi một cái đeo sau lưng, hành lý gọn đến mủi lòng, thằng nhỏ nói mang vác chi cho cực, thiếu gì mua nấy, bạn nó khoe quanh mấy khu công nghiệp thứ chi cũng có. Thằng nhỏ chưa tới nơi chốn này lần nào, nhưng nó tỉnh trân, “bạn con ở đó đông như quân Nguyên”.


Ông già bỗng nghĩ trăm năm trước ông bà mình khi chất hành lý lên ghe men theo bờ biển vô Nam khai phá, phía đó còn không có bạn bè chờ sẵn. Trước mặt mịt mù, nhưng họ vẫn dứt dây ghe cái một. Hôm ông về Quảng tìm lại gốc gác nhà mình, kịp gặp bà cóc một trăm lẻ chín tuổi. Vẫn minh mẫn, cóc nói mẹ của bà kể rằng lúc xô ghe ra không ai ngoái lại. Mẹ cóc khi ấy còn nhỏ, không nhớ tháng nhớ năm, chỉ nhớ bữa đó buồm họ căng gió Bắc."


- Tháng Giêng gió bỏ nhà đi | 

NGUYỄN NGỌC TƯ



Suy ngẫm : GIA ĐÌNH - St trên FB.

 

GIA ĐÌNH 


Thơ: NỖI NHỚ ĐONG ĐẦY - hathuthuy.

 



NỖI NHỚ ĐONG ĐẦY

Nhớ  vô vàn hàng yên chi hoa đỏ

Nhớ khuôn sân đá cuội trắng rì rào

Nhớ hàng sao chim tụ về làm tổ

Nhớ tượng Ngô Quyền nắng ngủ trên cao.


Và rất nhớ con dốc dài Kỷ Niệm

Chiều tan trường áo dài trắng bay bay

Gửi tặng nhau bài thơ màu mực tím

Đóa hoàng lan thơm ngát mãi không phai.


Nhớ rất nhớ hành lang hun hút gió

Bậc cầu thang chân sáo nhỏ tung tăng

Nhớ bàn học khắc đầy tên trên đó

Nhớ lá vàng rơi tơi tả ngoài sân.


Nhớ bạn bè của Ngô Quyền yêu dấu

Xa lắm rồi giờ biền biệt muôn nơi

Vẫn rất nhớ cành phượng già chim đậu

Và nhớ hoài chiều tan học mưa rơi.

hathuthuy

Thơ : THƯƠNG NHỚ NGƯỜI DƯNG - - Thạch Thảo BD.




 THƯƠNG NHỚ NGƯỜI DƯNG


Bất chợt đường đời, xuôi gặp gỡ

Ánh nhìn xao xuyến. Buổi đầu tiên.

Mắt cười lúng liếng, bao duyên dáng

Đã hốt hồn ai. Má lúm tiền.


Đường đời vạn nẻo, xuôi chi gặp

Đã phải lòng nhau, tự kiếp nào?

Hò hẹn lung linh, chiều mát gió

Đêm về thao thức. Bởi vì đâu?


Thương lắm người dưng, xa lắc ấy

Người dưng ơi ới. Gọi người dưng.

Tháng ngày khắc khoải, tim ai nhớ

Điêu đứng tình si. Thương quá chừng.


Như phải lòng nhau, từ kiếp trước

Bùa mê ai bỏ tự lâu rồi?

Từng đêm thắc thỏm, tương tư suốt

Bóng dáng người ta. Mỏi đứng ngồi.


Thương nhớ người dưng. Thương nhớ lắm

Yêu ai xin hứa hết đời nầy.


Ngày 26-2-2024

THẠCH THẢO - BD

Tìm hiểu : DỰNG NÊU - Cao Minh (fb)

 



DỰNG NÊU….

Mỹ Tục Tết miền Nam hai ngày dựng nêu ở Miền Nam xưa. 

Ca dao có câu:

“cu kêu ba tiếng cu kêu, 

trông mau tới tết dụng nêu ăn chè”

Nếu như Miền Bắc hay dựng nêu vào ngày 23 tháng chạp trùng với ngày đưa ông Táo, còn tại Miền Nam việc dựng nêu có hai móc thời gian chánh đánh dấu hai khoảng thời gian công việc vào ngày tết là ngày 25 tháng chạp và ngày 29 hoặc 30 tháng chạp. (Một số ít các gia đình miền Nam vẫn có lệ dựng Nêu ngày 23). 

1. Dựng Nêu ngày 25 tháng chạp.

Lý do dựng ngày 25 tháng chạp thường chỉ áp dụng với các nơi công sở, nhà việc, vì đến ngày này là ngày Tiễn Ông (tiễn thần) và cũng là ngày “treo ấn” của các Hương Chức trong Hội tề, việc dựng nhiều nhằm báo hiệu cho người dân trong làng biết là Hội đồng Hương chức và Hương chức Hành chánh làng đã nghỉĩ tết, các công việc liên quan đến hành chánh, tư pháp của làng xã tạm gác lại qua đến khi nào hạ nêu mới giải quyết. 

Nếu trong khoảng thời gian này, trong làng xã xuất hiện trộm cướp, giặc phỉ bị bắt tội quả tang thì Thầy Hương Quản, Cai tuần hiệp đồng nhau lại làm thị chứng mà đóng trăng tội phạm ở Nhà Việc chờ đến "hạ nêu" vào mồng 7 tết mới xét xử.

Lệ dựng nêu ở Công quán, Công sở, Nhà việc này đến sau đời Pháp thì dần mất đi, người dân sau đó chỉ dựng nêu vào ngày cuối năm.

Hiện, chỉ còn một số ít đình, chùa còn dựng theo ngày này, nhằm báo hiệu ăn Tết. 


2. Dựng Nêu ngày cuối năm (29 tháng thiếu, 30 tháng đủ). 

Đối với người dân bình thường trong làng xã, thì sau khi chuẩn bị các công việc bên ngoài gia đình như dọn dẹp khuôn viên nhà, giẫy mả tổ tiên và sau đó là dọn dẹp nhà cửa, đến khi nào mà các công việc chuẩn bị huờn thành xong thì người nhà bắt đầu cho việc DỰNG NÊU – LÊN NÊU. Cây nêu dựng tại nhà bá tánh cũng có hai ý nghĩa quan trọng:

Thứ nhứt: báo hiệu rằng gia đình đã chuẩn bị các công việc dọn dẹp, chưng dọn, bày trí xong rồi và chuẩn bị “ăn tết”. 

Thứ hai: cây nêu có tác dụng yếm tà, trừ quĩ, ngăn chặng những thứ “dơ dái” vào nhà vào dịp tết. 

Tại Miền Nam khác với các nơi khác là dựng nêu vào cuối năm. Và nhà người dân có lệ chỉ dựng nêu vào ngày rước ông bà, khi mà các công việc chưng dọn trong gia đình huờn thành hết. 

Do vậy, tại các nhà thường khi châu toàn việc xong mới dựng Nêu. 

3. Ngoài lề

Việc dựng Nêu ngày 25 hay 29, 30 vừa có ý nghĩa "gia đình đã chuẩn bị ăn tết", vừa là báo hiệu cho ma, quĩ không đến gần. 

Vì sau ngày 23 tháng chạp miền Nam ít dựng Nêu. Vì nhiều người cho rằng, ngày đó ông Táo về trời, không còn bảo vệ gia đình? 

Thiệt ra, ngày 23 mới đưa ông Táo, trên cơ sở các thần thánh, bổn mạng, tiên phật vẫn còn tại gia, nên việc dựng Nêu sớm thường ít được sử dụng. 

Thứ nhì, vì xưa coi dựng Nêu là báo hiệu ba ngày Tết, và ba ngày này bọn ma quỷ hay quấy phá, do đó cuối năm thường dựng nhứt, bên cạnh việc dựng Nêu, ngày cuối năm còn là ngày "đuổi Na ông, Na bà- ma quỉ", nên thường ngày trừ tịch là rộn ràn hơn hết. 

Thứ ba, xét về việc dựng Nêu, nếu dựng quá sớm, cây tre sẽ mau úa vàng, coi không được xanh tốt, do đó việc nhà dân dựng vào cuối năm để sáng mồng 1 sắc tre vẫn xanh tươi. 

4. Về hình thức cây Nêu

Cây nêu tựa như dáng một thân cổ thọ xòe nhánh, do đó khi chặt tre, chừa trên đảnh cây để tượng cho cây Đào vươn tàn, trừ ma khử quĩ. 

Trên cây Nêu treo một lá bùa Tứ Tung Ngũ Hoành, nhằm trấn trạch bình an. 

Kế đó trên cái giỏ hay cái bội nhỏ, để các lễ phẩm như trầu cau giấy tiền. 

5. Về việc dựng Nêu

Do từ ngày 25, tới cuối năm trước khi Khai Hạ, các làng xưa có lệ không cho động thổ phá cây, nên việc dựng Nêu liên quan đến đào đất động thổ, như vậy phải đặt bàn nhang mà cúng xin. 

Thường, khi dựng sẽ có bàn nghi và thực án, thực án bày đồ cúng Đất đai viên trạch xinh được đào xới. Cúng xong đoạn tuần hương rồi sẽ dựng Nêu lên. 

6. Kết 

Dựng Nêu là một nét rất hay trong văn hóa ta, cần nên bảo lưu lắm, ngày Tết thấy cây Nêu ít ra cũng mang vẻ Tết đến Xuân sang, vừa thể hiện sự bảo tồn văn hóa, vừa là cách quảng bá văn hóa tốt hơn hết vậy. 

• Copy từ Fb CAO MINH.

Thứ Tư, 28 tháng 2, 2024

Suy ngẫm : VUA GIA LONG CÓ XỨNG ĐÁNG... - Phạm Vĩnh Lộc (FB)




VUA GIA LONG CÓ XỨNG ĐÁNG ĐỂ DÂN TỘC HỌC TẬP?


Nếu bạn cũng 15 tuổi như Nguyễn Phúc Ánh (cỡ mới vào lớp 10), gia đình chết hết, bơ vơ giữa một xứ sở xa lạ cách quê nhà gần 1200 cây số, lại có một kẻ thù sở hữu sức mạnh vô địch như Tây Sơn luôn săn đuổi ngày đêm, bạn sẽ làm gì tiếp theo?


Mình muốn nghe phương án hành động của bạn. Bạn sẽ tính toán ra sao để sống sót trong vòng 25 năm, báo thù, lấy lại nhà cửa và lên ngôi hoàng đế, hoàn thành cuộc chơi ở độ khó cao nhất. Let the game begin.


Riêng mình nghĩ đến là thấy nản mẹ rồi, chắc kiếm cái chùa nào đó dưới miệt vườn đi tu cho nhanh, game over. Hoặc treo cổ, hy vọng random ra được character khác với cốt truyện đỡ phức tạp hơn. 


Nguyễn Ánh, năm 15 tuổi từ một vương tử trở thành một đứa nhỏ lang thang không nhà không cửa. Ông đã tan nát cõi lòng chứng kiến cảnh từng người thân của mình bị đóng cũi giải đi xử tử. Ký ức đau đớn đó luôn hằn sâu trong tâm trí cậu bé. Quân Tây Sơn đã truy sát tận cùng họ Nguyễn Phúc trong khi đôi bên không có oán hận gì, thù này không sâu sao được? 


Khi 17 tuổi, Nguyễn Phúc Ánh trở thành Đại nguyên soái - lãnh tụ chống Tây Sơn ở Gia Định. Lúc ấy Tây Sơn đang độ mạnh nhất, mọi thứ của Nguyễn Ánh đều không thể so bì được, cả nhân lực lẫn thực lực. Ông thua rất nhiều trận, đếm cũng không hết. Nhiều hôm phải quây quần cùng với quân sĩ ngồi ăn bữa cơm chỉ có rau và cá muối.


Bao phen lênh đênh trên biển nhịn đói nhịn khát, Nguyễn Ánh cứ nghĩ số mình đến đây đã tận. Như lần ông vào cửa sông do thám thì quân Tây Sơn phát hiện, ra sức truy sát. Đến khi Tây Sơn không còn rượt nữa thì thuyền ông đã long đong trên đại dương được 7 ngày. Thức ăn hết, nước ngọt cũng hết, Nguyễn Ánh ngẩng mặt lên trời khóc thì bỗng đâu có nước ngọt tràn đến. 


Người ta nói là trời cứu ông, nhưng có thể là do Cửu Long giang đổ ra biển sau mùa lũ, lượng nước quá dồi dào nên chưa bị mặn. Rồi có phen Nguyễn Ánh bị phò mã Trương Văn Đa tìm diệt đến tận Côn Đảo nhưng gặp bão. Cơn bão đó không giết ông mà lại cứu vớt ông. Nguyễn Ánh trôi dạt giữa biển cả dưới bão tố vần vũ điên cuồng mà không chết, thật kỳ tích.


Nguyễn Ánh tiêu diệt Tây Sơn là vì trách nhiệm phục hưng lại gia tộc đã bị thảm sát đặt nặng lên đôi vai, quyết tâm của ông là vậy và mục đích sống của ông cũng là thế. Như người thường thì Nguyễn Ánh cạo đầu đi tu cho nhanh, việc gì phải lì lợm đến mức đặt bản thân vào cửa tử biết bao nhiêu lần, từ hai bàn tay trắng đối đầu với đoàn quân hùng mạnh nhất thời đó. 


Có thể Nguyễn Ánh không phải một minh quân vì các sai lầm trong đời của mình, nhưng ông cũng không phải là hôn quân.


Khu vực Đông Nam Á vào cuối thế kỷ 18 không phải là những quốc gia có lãnh thổ hành chính rõ rệt được quy định theo công pháp quốc tế ngày nay, mà là những khu vực ảnh hưởng theo từng dòng họ, khi mạnh thì bành trướng, khi yếu thì co cụm. 


Hai trăm năm ly khai bên bờ sông Ranh đã biến Đàng Trong thành một xứ sở với Văn hóa và sắc tộc hoàn toàn khác biệt với Đàng Ngoài. 


Đàng Ngoài là nước An Nam, còn Đàng Trong là nước Quảng Nam. 


Đó là lý do phải nghiêm chỉnh nhìn nhận hai Đàng là hai vương quốc khác nhau. 


Nguyễn Nhạc không cho Nguyễn Huệ đánh ra bắc vì ông cũng thừa nhận Đàng Ngoài là một nước lớn có truyền thống lâu đời, và cho rằng dù đời ông có chiếm được thì đời con cháu ông cũng không giữ được.


Nguyễn Ánh là người thừa kế chính danh và hợp pháp của nước Đàng Trong, thủ đô Phú Xuân. Đất nước đó do ông tổ Nguyễn Hoàng lập ra và kết thúc khi Nguyễn Cư Trinh vẽ nét bút cuối cùng. 


Tổ quốc của Nguyễn Ánh mất về tay người khác là Tây Sơn, thì nghĩa vụ của ông ta là phải lấy lại.


Vương tử Nguyễn Ánh đã cố gắng rất nhiều, thua liên tục nhưng không đòi lại được nên phải mời đồng minh. 


Vấn đề nằm ở chỗ này nên nhiều người nói Ánh là kẻ bán nước Việt Nam. 


Nhưng lúc đó làm quái gì có nước Việt Nam, ông ta chỉ đòi lại đất Đàng Trong của tổ tiên do người khác cưỡng đoạt. 


Khái niệm "Việt Nam thống nhất" hay "non sông hình chữ S" chỉ có khi vua Gia Long ghép 2 đàng lại về sau. Đừng đem bản đồ Việt Nam thế kỷ 20 rồi đánh giá tình hình thế kỷ 18. 


Chưa kể Ánh mời Xiêm để đòi lại đất và đuổi Tây Sơn, chứ không phải mời Xiêm vào để cướp hiếp giết dân ổng.


Nhà Đường sau loạn An Lộc Sơn đã rất yếu sinh lý, không còn đủ sức chống lại đế chế Thổ Phồn xâm lược. Quân Thổ Phồn chiếm được Trường An, buộc vua Đường phải cầu viện đến quân Hồi Hột, vốn cũng là một đế chế thảo nguyên hùng mạnh cùng thời. Việc này về sau không ai đánh giá là vua Đường bán nước. 


Chủ quyền của mỗi quốc gia được khẳng định chính xác kể từ lúc thế giới hình thành trật tự cố định sau thế chiến thứ 2. 


Nên từ mốc đó trở đi chuyện xâm lược mới bị quốc tế lên án dữ dội. Trong cái thời phong kiến và thực dân, hay thời đại của chinh phạt và khởi nghĩa, biên giới các quốc gia bị thay đổi liên tục. 


Đại khái thằng nào mạnh thằng đó ăn, chẳng có luật pháp quốc tế can thiệp, cũng chẳng có ai quan ngại sâu sắc giùm. Cho nên khi bị đánh thì chỉ có hai cách:


Một là tự lực cánh sinh nếu cảm thấy tự tin rằng mình đủ sức khô máu được với đối phương. 


Như Anh thắng Pháp trong đại thủy chiến Trafalgar, Tôn Quyền thắng Tào Tháo ở Xích Bích... Đây là thượng sách.


Hai là khi chịu không nổi nhiệt nữa, do kẻ thù quá bá đạo thì gọi đồng minh đến cứu. 


Giống như cách vua Đường, vua Triều Tiên, chúa Nguyễn Phúc Ánh, hay các liên minh chống Napoleon, Cách mạng Mỹ... thực hiện. Đây là hạ sách.


Nói chung trước 1945, giỏi thì tìm cách đòi lại đất, dở thì mất đất về tay người, tệ hơn nữa là bị sáp nhập và biến mất khỏi bản đồ thế giới. 


Nên mình mới nói, đừng đem quan điểm chủ quyền thế kỷ 20 áp đặt cho tiền nhân của những thế kỷ trước. Vì những thứ mình lên án gay gắt bây giờ, ngày đó người ta lại nghĩ khác.


Xét về trình độ học vấn thì Nguyễn Huệ học cao hơn Nguyễn Ánh.


Nguyễn Huệ xuất thân trong một gia đình trung lưu giàu có (chứ không phải nông dân như nhiều bạn tưởng), thành ra từ bé đã được học hành tử tế. Thầy của Nguyễn Huệ rất nghiêm, lò luyện của ông giáo bắt buộc đứa nào học võ thì phải học cả văn, lôi thôi tống cổ ra khỏi lớp, không nói nhiều. Nguyễn Nhạc vì gánh kinh tế cho gia đình nên bỏ học sớm. Trong lúc anh trai đang chèo thuyền dọc sông Côn kết giao cùng giới hắc đạo, thì Nguyễn Huệ vẫn phải mài đít trên ghế nhà trường. Ban ngày luyện võ, ban đêm đọc sách, viết chữ cực đẹp. 18 tuổi tốt nghiệp trung học phổ thông loại giỏi, sau đó lên núi theo anh hành tẩu giang hồ.


Nguyễn Ánh khốn khó từ lúc thơ ấu, phải lưu lạc khắp nơi, chẳng mấy khi được ở yên một chỗ nên không được cắp sách đến trường, gặp gỡ bạn thân và cô giáo hiền như bao đứa bé cùng trang lứa khác. 


Bản thân Ánh không hiểu ngoại ngữ, nên khi mấy ông Tây xí xố tâu bày đều phải nhờ các quan phiên dịch giùm, bù lại cậu rất hay chữ Nho và có thể làm thơ. Tính Ánh vốn tò mò nên thấy cái gì lạ đều tìm cách học cho bằng được, nhất là các bản vẽ vũ khí và những cách đắp lũy xây thành, đóng tàu, cũng như nhiều thứ khác. 


Nguyễn Ánh đặt mua được nhiều sách vở và địa đồ bên châu Âu, thì nhờ chăm học mà hiểu gần hết.


Tuy đường giáo dục còi cọc, nhưng bù lại kỹ năng mềm của Nguyễn Ánh rất khéo, đặc biệt là khả năng giao tiếp. Nguyễn Huệ khiến người ta rùng mình khi đối diện vì uy vũ của ông. Thì Nguyễn Ánh được người phương Tây đánh giá là cử chỉ rất dễ thương và hòa nhã, cấp dưới cũng kính trọng vì Nguyễn Ánh đối xử với họ rất tốt và thân mật.


Một điểm rất hay của Nguyễn Ánh là ông ta nắm được tâm lý con người và dùng nó để thực hiện kế hoạch của mình.


Cả Tây Sơn lẫn Nguyễn Ánh đều cưỡng bức đi lính, nhưng Tây Sơn thì bắt bừa bãi, già trẻ lớn bé bắt hết. Còn Nguyễn Ánh thì bắt mọi người làm nông nghiệp, ai lười biếng thì sung quân. Ba năm đầu từ ngày khẩn hoang sẽ miễn thuế. Nếu thu từ 70-100 thùng lúa sẽ được "khuyến mãi" như sau: 


-Dân thường sẽ được miễn đào kênh, đắp thành một năm.


-Binh lính sẽ được miễn đi đánh nhau một năm.


Thành ra sau khi Tây Sơn hủy diệt Nam Bộ thì Nguyễn Ánh đã hồi sinh nó nhanh chóng nhờ kích thích mọi người hăng say lao động. Đó là việc thứ nhất.


Việc thứ hai, lúc Tây Sơn hạ xong thành Gia Định đã xảy ra vụ thảm sát Chợ Lớn vô cùng nghiêm trọng. Nhà văn Sơn Nam cho rằng có khoảng 10.000 người chết, thây trôi tắc cả sông, cả tháng sau không ai dám ăn tôm cá ở đó. Nói chung ghê gấp 100 lần khủng bố nhà hát Bataclan ở Paris.


Về sau lúc Nguyễn Ánh hạ được thành Quy Nhơn, đổi tên thành Bình Định, dân chúng cũng sợ hãi vì không biết có bị thảm sát không. Nhưng trái lại, Nguyễn Ánh nghiêm cấm bất cứ hình thức cướp bóc nào và xử cực nghiêm những ai dám làm hại dân Quy Nhơn, trọng dụng những người chịu đầu hàng, đồng thời tha thuế ba năm. Chính thế cho nên Quy Nhơn yên bình và Nguyễn Ánh về sau vẫn giữ được nơi này, dù nó là đất tổ nhà Tây Sơn.


Lúc thống nhất Việt Nam thì công việc càng khó hơn nữa, vì lúc này đất đai rộng gấp ba lần ngày trước, lại thêm đủ nhóm dân tộc với tính cách và lịch sử khác nhau. Vua Gia Long cho lập các kho vận trữ lúa gạo (kho Bình Chuẩn Thương), cắt cử quan lại chăm lo việc cứu đói dân chúng. 


Mặc dù bị chửi từ nam tới bắc nhưng Nguyễn Ánh vẫn điều hành quốc gia ổn thỏa và hùng mạnh, ông ta hiểu cách làm vua.


*_* Tuy mang tiếng là cấu kết với ngoại bang, cõng rắn về cắn gà nhà, nhưng Vua Gia Long chưa hề để mất mét đất nào? Mà còn có công mở rộng bờ cõi, biển đảo, như thác Bản Dốc, Ải Nam Quan, Hoàng Sa, Trường Sa, lãnh hải Biển Đông... .

PHẠM VĨNH LỘC ( FB )

Tiểu phẩm : BIẾT RỒI CÒN HỎI! - Hoài Nguyễn.

 




BIẾT RỒI CÒN HỎI !

Sáng nay nhà thơ Văn Kệch lên thành phố khá sớm.

Chẳng là chàng ta từ một nhà thơ cấp huyện, sau nhiều năm miệt mài phấn đấu viết và đăng báo từ cấp huyện lên cấp tỉnh cũng khá nhiều, may mắn lọt vào “mắt xanh” của mấy “quan thơ” trên tỉnh nên mới được kết nạp vào Hội nhà thơ của tỉnh gần năm nay, được hỗ trợ kinh phí in ra cũng mấy tập thơ tầm tầm bậc trung, cũng có cái gọi là biếu xén quan viên các cấp.

Sau Tết Nguyên đán vừa rồi, chuẩn bị cho ngày nhà thơ vào rằm tháng giêng này, có lẽ mấy quan trên thấy năng lực làm thơ của Văn Kệch khá phong phú nên giao cho nhiệm vụ chọn lọc tập hợp thơ của các nhà thơ trong tỉnh để tổ chức đêm thơ Nguyên tiêu.

Lên thành phố khá sớm nên Văn Kệch chưa phải vội vàng gì, ghé vào quán café Mây Ngàn làm vài ngụm buổi sáng cho có vẻ là một tao nhân mặc khách văn nghệ sĩ chứ!

Đang đứng nhìn dáo dác xung quanh để tìm chỗ trống thì bất ngờ, nhà thơ nghe có tiếng gọi:

- Anh Kệch ! Anh Kệch !

Văn Kệch quay nhìn về phía vừa có tiếng gọi mình thì nhận ra cô Thị Cỡm, một nhà thơ nữ của thành phố này cũng được kết nạp vào Hội Nhà thơ tỉnh cùng dịp với anh. Chính vì thế mà hai người hết sức thân thiết với nhau...

- Ui! Anh ở huyện lên thành phố lúc nào mà sớm dzậy! Chà! hôm nay nhà thơ lên phố chắc có việc gì quan trọng đây! Mà cũng gần đến Ngày nhà thơ rồi anh nhỉ? Không biết năm nay Hội nhà thơ ta tổ chức thế nào đây?

- Đó ! Đó! Anh lên trên này cũng vì cái việc tổ chức Đêm thơ Nguyên tiêu đó em à! Mấy anh trên này tin tưởng anh nên giao cho anh chọn lọc thơ của mấy nhà thơ trong tỉnh gửi lên, chọn mỗi người một vài câu thơ hay nhất để …thả thơ đó em …

- Bốc phét! Bốc phét! Khà ! Khà!!!

Cả hai nhà thơ Văn Kệch và Thị Cỡm giật mình tưởng ai mắng mình, nhìn xung quanh chỉ thấy mọi người nói chuyện với nhau, chẳng ai chú ý gì đến mình. Chợt Thị Cỡm nhìn lên và phát hiện có một chiếc lồng chim, trong có một chú két xanh đang gật gù… Thị Cỡm nghi hoặc nhưng không nói ra, chẳng lẽ con két này nói như người?

Thấy im lặng trở lại, Thị Cỡm mới nheo mắt với Văn Kệch:

- Chà ! Kỳ này anh lên chức to đừng quên em út đấy nghen! Mấy nhà thơ khác thả một quả bóng thơ còn em là anh phải ưu tiên dành cho vài quả đó nghen! Không được là em bắt đền anh đó …

- Khà ! Khà! Bốc phét! Bốc phét!

Lần này thì chính Thị Cỡm nhìn thấy chú két phía sau lưng nhà thơ Văn Kệch cười nghiêng ngả trong chiếc lồng và thốt lên những lời như muốn chửi hai người. Cả hai nhà thơ bực mình lắm và lúc đó ông chủ quán đi ngang qua.

Thị Cỡm là người quen ông chủ quán này nên phàn nàn:

- Anh à! Con két nhà anh nuôi sao… mất dạy quá chừng! Bọn em đang nói chuyện riêng với nhau thì nó chen ngang vào, nói như chửi vào mặt… Nó cười khà khà rồi nói “bốc phét” mấy lần như vậy!

- Ồ ! Vậy xin lỗi cô về những lời khiếm nhã của con két nhé! Con két này tôi nuôi từ nhỏ, dạy cho hiểu tiếng người và nói rất tốt. Tuy nhiên ai dạy gì thì nó nói y lại như vậy! Chắc có mấy người khách tinh nghịch bày nó nói tầm bậy đó… Xin lỗi cô và ông đây, tôi sẽ cố gắng… dạy bảo nó nói những từ lịch sự tử tế hơn.

Ông chủ nói xong xin phép hai nhà thơ rồi đi ngay. Câu chuyện cũng cho qua vì dẫu sao con vẹt vẫn là … con vẹt. Văn Kệch và Thị Cỡm sau khi uống café cũng vui vẻ chia tay rồi cũng quên luôn chuyện con két phá đám…

Sáng ngày tổ chức Hội thơ Nguyên tiêu, nhà thơ Văn Kệch lại lên thành phố sớm như mọi khi và lại cũng đến ngay cái quán café Mây Ngàn. Nhà thơ Văn Kệch lấy điện thoại và gọi cho nhà thơ Thị Cỡm đến chắc là vừa uống café sáng, vừa báo lại chuyện hứa hẹn ưu tiên hôm trước với người đẹp…

Hai nhà thơ gặp nhau cứ như cá gặp nước, rồng gặp mây nhất là Thị Cỡm cứ hỏi xoắn xít chuyện cô nàng có mấy câu thơ được thả…

- Em cứ từ từ lại nào ! Anh đã hứa là anh làm! Mấy anh trên đâu có quan tâm chuyện thơ ai được thả bao nhiêu bài, bao nhiêu câu đâu! Mấy ảnh chỉ lo trên tỉnh cấp kinh phí có như đúng dự trù không thôi em à! Bao nhiêu câu của ai là do quyền anh…sinh sát… Nói chưa hết ý, cả hai người nghe con két trên đầu cất tiếng cười:

- Ha! Ha! Ha! – Mà cái giọng cười của nó nghe đểu và khó chịu quá…

- Sao tao đang nói chuyện mà mầy lại cười cắt ngang vậy mầy? Nhà thơ Văn Kệch nổi khùng nhìn vào lồng, tay dí dí vào con két và hỏi.

- Ha! Ha! Ha! Biết rồi còn hỏi! Biết rồi còn hỏi! …

………………

HOÀI NGUYỄN  – 10/02/2017

Sưu tầm : Tết NGUYÊN ĐÁN... - AChi.

 




TẾT NGUYÊN ĐÁN LÀ CỦA VIỆT NAM. 


  Nguồn gốc của Tết vẫn còn đang được tranh cãi , nhưng hầu hết thông tin đều cho rằng ngày Tết Nguyễn Đán có nguồn gốc từ Trung Quốc và được du nhập về Việt Nam trong 1000 năm bắc thuộc. Nhưng theo sự tích "Bánh chưng bánh dày" thì người Việt đã ăn tết từ trước thời vua Hùng, nghĩa là trước 1000 năm bắc thuộc.

Có thể thấy Tết ở Việt Nam đã có từ rất lâu, trước thời Tam Hoàng Ngũ Đế. Khổng Tử đã viết trong cuốn Kinh Lễ: 

"Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó. Sách Giao Chỉ Chí cũng có đoạn viết:

“Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới,không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang,Vua Chúa  cũng đều tham gia lễ hội này".

Như vậy có có thể nói Tết Nguyên Đán có nguồn gốc từ Việt Nam.

Tết của hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc có ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng vẫn có những đặc trưng riêng của từng quốc gia.


ACHI sưu tầm. 

Cuộc sống : NỀ NẾP CỦA NGƯỜI... - Nguyễn An Chi.

 




NỀ NẾP  CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CẦN GÌN GIỮ


Trước 1975 ở miền Nam, vợ chồng thường gọi nhau là "mình".

Khi giới thiệu vợ với người khác thì người chồng thường nói:

- Xin giới thiệu với anh, đây là nhà tôi.

Ngược lại trong trường hợp khách đến tìm thì người vợ lại nói:

Thưa anh, nhà tôi đi vắng. Nếu cần việc gì thì anh có thể nhắn lại.

Đạo vợ chồng nghĩa phu thê thời đó có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng. Những chuyện ly thân ly hôn rất hiếm khi xảy ra. Thậm chí có nhiều trường hợp chỉ mới là người yêu chưa hề được nắm bàn tay nhưng vẫn chờ đợi nhau hàng chục năm với tất cả sự nhớ nhung trung trinh chung thủy.

Miền Nam trước 1975 , không có chuyện giấy tờ nhà đất xe cộ đứng tên cả 2 vợ chồng như thời nay . Chỉ 1 người đại diện, thường là người chồng, vì xã hội miền Nam trước 1975 hiếm có chuyện vợ chồng lừa gạt nhau , tranh giành tài sản. Hồi đó, nếu có ly hôn ,cũng không có chuyện phân xử tranh giành quyền nuôi con và chu cấp. Tất cả đều là tự nguyện thu xếp của 2 vợ chồng 

..........

Người lớn đã như vậy nên đối với con cái thì người miền Nam rất chú trọng vấn đề giáo dục.

Thông thường mấy đứa nhỏ gọi Ba - Má, Cha - Mẹ, vùng thôn quê thì có nhà gọi là Tía - Vú. Có nhiều gia đình lại gọi Papa - Maman theo Tây.

Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì mới nghe những cách xưng hô Thầy - U, Bố - Đẻ, Cậu - Mợ...

Nhà của người miền Nam xưa không bao giờ có chuyện phơi quần áo phía trước mặt tiền. Trước nhà là bộ mặt của gia đình, không có chuyện phơi bày những thứ sinh hoạt riêng tư như vậy.

Con cái trong nhà của người miền Nam thường được dạy dỗ rất kỹ theo lễ giáo.

Đi thưa về trình, trước khi đi đâu thì phải nói Thưa Ba, con đi tới nhà bạn... Lúc về thì cũng nói Thưa Ba, con mới về...

Có khách đến thăm nhà thì phải bước ra khoanh tay cúi đầu chào Thưa Bác, Thưa Chú, Thưa Cô, Thưa Dì...

Khi đã thưa gửi đàng hoàng thì vào trong lấy ly nước đem ra mời khách, làm gì cũng bằng cả hai tay.

Trong khi khách nói chuyện với Cha Mẹ thì tuyệt đối tránh mặt không lai vãng, không được phép đùa giỡn hay nói chuyện lớn tiếng.

Trong lúc đang ăn không được nói chuyện, uống nước hay làm cho chén đũa kêu thành tiếng, nhai thức ăn không được phát ra tiếng sì sụp sột soạt, không ợ hơi vì như vậy là bất lịch sự...

Con gái đến tuổi cập kê khi ngồi thì phải khép hai chân lại, không được phép nằm ngửa ở bất cứ đâu nếu không phải là trong buồng riêng đã đóng kín cửa. Các cô ấy cũng không được phép tự ý ra nhà trước chào khách nếu không được Cha Mẹ gọi.

Trò chuyện với bất cứ ai cũng phải dùng lời lẽ chuẩn mực, không được nói những từ ngữ dung tục không thanh tao đứng đắn.

Đi mà kéo lê chiếc dép kêu lẹt xẹt: bị đòn. Người lớn đang nói chuyện mà chen vào một câu thì gọi là ăn cơm hớt: bị đòn. Buổi trưa ăn cơm xong mà không chịu ngủ cứ đùa giỡn hoặc nói lớn tiếng: bị đòn... Con nít ngày xưa rất dễ ăn chổi lông gà với những tội trạng như vậy.

Chỉ cái chuyện ăn uống đi đứng nằm ngồi sinh hoạt thôi mà ngày xưa ta đã được ông bà cha mẹ giáo huấn rất kỹ. Qua đó đã hình thành nên nhiều thế hệ người miền Nam có tính cách lễ phép gia giáo khiêm cung khoan hòa như đã thấy...

Được thụ hưởng cung cách dạy dỗ của ông bà cha mẹ như vậy mà nếu ngày hôm nay mỗi người cố gắng truyền lại những điều tốt đẹp đó cho thế hệ con cháu thì đó chính là đã góp một phần quan trọng để giữ gìn danh tiếng cao quý đáng hãnh diện nhất của chúng ta: NGƯỜI VIỆT NAM !


 NGUYỄN AN CHI.

Phương xa: BÁN CHA MẸ - Cang Huỳnh.

 




BÁN CHA MẸ


Chuyện xảy ra ở Nhật Bản. Một tờ báo ở Tokyo đăng mẫu rao giật gân về việc bán cha mẹ. Nội dung đại loại là. "Bán cha mẹ: Cha 68 tuổi, mẹ 66 tuổi Giá 900 yên".

Ai đọc mẫu tin rao cũng đều choáng váng, mọi người nói với nhau. "Thật là cái thời chẳng ra gì, đến cả cha mẹ cũng đem ra bán. Chánh quyền mắt để đâu sao không thấy".

Tất cả đều bất mãn.

Một hôm tờ báo có mẫu tin rao đến tay một cặp vợ chồng trẻ mấy ngày trước vừa chôn cất cha mẹ mình bị tai nạn giao thông. Đôi trẻ mất cha mẹ đang rất đau buồn, nên họ thấy ý định bán cha mẹ của những người con nào đó là một việc bất hiếu. Họ kinh hoàng khi nghĩ đến sự đau đớn vật vã của bậc cha mẹ bị con đem bán.

Vì thế đôi vợ chồng này quyết định sẽ mua hai ông bà và nuôi dưỡng họ một đời sống mới đầy yêu thương.

Nhưng khi họ tìm đến địa chỉ rao trên báo thì vô cùng ngạc nhiên. Bởi trước mắt họ là một tòa nhà lộng lẫy với sân vườn đầy hoa khoe sắc. Họ nghĩ mình đã lầm địa chỉ, nhưng cánh cửa mở ra và một người đàn ông lịch sự mỉm cười chào họ.

- Chào bác, có lẽ tụi cháu lầm địa chỉ trên báo....

- Không...đúng mà cháu, hai cháu vô nhà đi. Người đàn ông nói.

Ông mời khách ngồi và gọi vợ ra.

- Hai cháu thấy đó, hai bác không phải nghèo, nhưng hai bác không có con cháu để thừa kế tài sản. Vì vậy hai bác quyết định rao trên báo để tìm một người xứng đáng thừa hưởng.

Hai bác biết chỉ những ai hiếu thảo có tình thương người mới để ý đến mẫu rao đó, nhưng vẫn nghi ngờ khó mà tìm được người như ý....

Việc hai cháu đến đây chứng tỏ hai cháu là người tốt, và hai bác rất mừng vì được gặp hai cháu.

- Phần kết có thể do bạn tự suy nghĩ và lựa chọn, theo ý của bạn.

- Câu chuyện này là có thật nơi đất nước "Mặt trời mọc" luôn có nhiều điều kỳ diệu từ Kỹ thuật đến Nhân văn.

CANG HUỲNH

(Lược dịch từ La Vie est belle, hình minh hoạ sưu tầm)